TRÁNH DÙNG TỪ ĐỆM
Khi chúng ta nói chuyện thường dựa vào những tình huống khác
nhau mà sử dụng những phương pháp khác nhau. Nếu gặp vấn đề rất đơn giản thì
dùng “a ...” “vâng...” hoặc gật đầu là được.
Những từ “a...” “vâng...” là cách dùng câu đệm mà chúng ta
thường nghe thấy, cách dùng câu đệm thường chỉ phương thức ngôn ngữ làm người
ta muốn thoát ra, muốn thức tỉnh khỏi ức chế trong cảm giác lo sợ của môi trường,
không khí, trạng thái xung quanh. Xuất hiện “cách dùng câu đệm” bởi khi mọi người
cần nói những chuyện tương đối phức tạp mà nhất thời không tìm ra từ ngữ và
phương thức biểu đạt thích hợp sẽ xuất
hiện ngôn ngữ hoặc tư duy tạm thời, những ngôn ngữ mang tính quá độ đã sử dụng.
Nếu những việc muốn nói rất đơn giản thì khi nói sẽ lưu loát, không có bất kỳ
trở ngại nào đương nhiên cũng không cần dùng câu đệm.
Khi nói chuyện, người không thành thục thường dùng câu đệm để
hỏi ý kiến của đối phương như “có phải không?” “được không?” Không hiểu đối
phương, không nhìn thấy mặt đối phương nên không thể phán đoán tâm lý đối
phương từ cách biểu đạt tình cảm của nó, vì thế mà sinh ra cảm giác bất an
không thể nắm bắt. Điều này làm cho mình không thể không dùng câu đệm “được
không?” để hỏi ý kiến người khác, hy vọng có được câu trả lời khẳng định hoặc sự
cổ vũ của đối phương tăng thêm cảm giác tự tin, loại trừ cảm giác bất an khó nắm
bắt.
Thông thường có hai tình huống sử dụng câu đệm,
Một là, trong cuộc sống thường ngày sử dụng theo thói quen.
Những người quen dùng câu đệm trong cuộc sống hàng ngày là những chính trị gia,
người phát ngôn, giáo sư, luật sư, người bán hàng và những người coi nói chuyện
là nghề nghiệp. Chúng ta thường gặp một thầy giáo thông qua sự thống kê của học
sinh cho thấy trong một tiết học 50 phút ông dùng tới 378 từ “cái đó...”. Một
nguyên nhân khác của việc sử dụng “câu đệm” là có tật. Những người này dùng câu
đệm là vì họ lo sợ và phân liệt thần kinh đối với người khác. Trong giới nữ nếu
xuất hiện tình huống này là do chứng phân liệt thần kinh dẫn tới.
Cho dù sử dụng “câu đệm” trong bất cứ tình huống nào đều là
những việc tương đối phức tạp phát sinh khi khó quyết đoán, mục đích là kìm chế
tâm tư bất an, muốn nói ra ý kiến của
mình cho nên nhiều lần dùng câu đệm. Những người ý chí tương đối kiên cường
không bị ảnh hưởng bởi bất kì sự việc và môi trường nào, tự nghĩ tự làm thì khi
họ tính toán đưa ra cách nghĩ và chủ trương của mình sẽ không xuất hiện cái gọi
là “cách dùng câu đệm”. Rất nhiều người khi gặp chuyện phức tạp khó giải quyết
thường xuất hiện tình huống này. Gặp những tình huống này nếu bạn mạnh dạn nói
rõ chủ trương và ý kiến của mình thì sẽ lo lắng bất an, liệu có xuất hiện những
ý kiến phản đối chủ trương hay ý kiến của mình không? Bởi lo lắng xuất hiện
tình huống này cho nên bạn do dự không quyết khi đưa ra ý kiến của mình. Để giảm
bớt sự lo lắng này đành phải sử dụng câu đệm để giúp liên kết ngôn ngữ. Tình huống
này thường xuất hiện trong lúc nói chuyện bình thường với người khác.
Những người có nghề nghiệp như người chủ trì tiết mục của
đài truyền thanh cũng có không ít người thích dùng câu đệm. Đương nhiên những
người dùng “câu đệm” chủ yếu là trong những tình huống quan trọng đối diện với
thính giả, dùng nó để kết nối trong việc giảng giải hoặc sử dụng nhiều lần câu
đệm, mượn thời gian để suy nghĩ dùng phương pháp nào để tiến hành đàm thoại, hiển
nhiên họ dùng câu đệm khác với cách sử dụng của những người có tính cách khác
thường, không thể coi nó là phản ánh của tính cách khác thường.
Nếu một người dám đối mặt với bất kì nhân vật nào, thì trên
phương diện ngôn ngữ cũng không dùng “câu đệm” nhiều lần. Ngược lại những người
cẩn thận tỉ mỉ, nhìn trước ngó sau sẽ thường dùng “câu đệm”. Tư liệu chỉ rõ,
người có tính cách này thì tần suất dùng câu đệm cao gấp đôi so với những người
bình thường.
Nhưng điều đáng nói là người nói lắp rất ít dùng câu đệm, bởi
vì khi họ nói âm đơn từ của câu đệm sẽ cắn vào lưỡi, không phát âm được cho nên
dù trong khi nói chuyện người nói lắp nói đứt đoạn nhiều lần nhưng vẫn ít dùng
câu đệm.
Khi gặp những sự việc hoặc những tình huống phức tạp chúng
ta sẽ tập trung tinh thần vào tiến hành suy xét, lúc này ngôn ngữ sẽ xuất hiện
sự đứt đoạn. Để nối liền sự đứt đoạn này sẽ ý thức được việc sử dụng nhiều lần
từ cảm thán hoặc từ liên tiếp như “a...”, “cái này...”, “cái đó...” để biểu đạt
tình cảm, tư tưởng.
Ngoài ra vì lo sợ xuất hiện tình huống này mà do dự không
quyết, khi đưa ra ý kiến của mình trong lòng rất lo sợ, cũng sử dụng liên tục
“ư...”, “cái này...”, “cái đó...”
Nếu một người bị tính nghiêm trọng hoặc cấp bách của • một
việc tương đối nghiêm trọng đè nén, có cảm giác đi vào đường cùng, xuất hiện
tình huống đã nghĩ kĩ nhưng lại không nói ra những tình thế khó xử. Do quá lo lắng
một người sẽ khó tập trung tinh lực để suy xét, phân tán tư duy tất nhiên sẽ xuất
hiện sự gián đoạn ngôn ngữ nên họ phải dùng những từ như “ư...”, “cái này...”,
“cái đó...”
Cũng có thể nói tính cấp bách và áp lực của sự việc đã khống
chế năng lực tư duy suy nghĩ vấn đề một cách tự do tự tại của một người cho nên
bị gián đoạn ngôn ngữ buộc phải dùng những từ này để gợi dậy, áp chế tư tưởng
và tình cảm, liên kết những ngôn ngữ vụn vặt làm chúng trở nên giàu tính hàm
súc.
Tóm lại, sử dụng nhiều lần “cách nói cái nút” là hành vi
ngôn ngữ không đẹp, tốt nhất là cố gắng kiềm chế.
Muốn dẹp bỏ cách nói đứt quãng cũng như chữa bệnh nói lắp,
khi nói chuyện đừng nên tập trung sự chú ý của mình vào câu chuyện mình đang
nói mà nên tập trung vào bất kì câu chuyện nào ở bên ngoài, điều này sẽ có những
hiệu quả nhất định. Ví dụ khi nói chuyện trong tay cầm một cái bút chì vẽ, tập
trung sự chú ý vào cây bút chì thì cách nói câu đệm sẽ dần mất đi. Cách làm này
có thể làm người ta thoát khỏi ý thức “mình đang nói chuyện”, tập trung sự chú
ý vào thế giới bên ngoài để mình tự nhiên mà nhẹ nhàng nói chuyện.
Bỏ cách nói câu đệm là điều có thể. Tương tự để một người
bình thường quen dùng cách nói câu đệm trong khi nói chuyện cũng là việc có thể,
chỉ cần đem môi trường khách quan nơi anh ta ở hoặc sự việc mà anh ta đối diện,
cố ý tạo ra sự khó khăn và phức tạp cực đoan là có thể đạt được mục đích này.
Từ ví dụ trên có thể thấy khi người ta thuật lại câu chuyện
nào đó nếu gặp phải khó khăn phiền phức, khó giải quyết thì cần kết hợp xử lý
quy đoán để chiến thắng hoặc đối phó với khó khăn này, sẽ nhanh chóng tìm thấy
ngôn ngữ thích hợp để câu chuyện không bị gián đoạn. Nhưng trong cuộc sống thực
tại, khi khó tìm thấy từ ngữ và phương pháp biểu đạt thích hợp thì miệng sẽ tự
giác sử dụng cách nói câu đệm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét