LỊCH SỰ VÀ Ý THỨC
Trong xã hội mỗi người đều có một địa vị nhất định, địa vị khác nhau ngôn ngữ sử dụng cũng khác nhau. Quan hệ thân phận trên dưới trong đẳng cấp xã hội quyết định nghề nghiệp của một người mà hình thành ý thức đẳng cấp xã hội. So với người bình thường là nhân viên bán hàng sẽ thấy sự khác biệt rõ rệt trong địa vị xã hội giữa những người có nghề nghiệp chuyên môn như: giáo sư đại học, bác sỹ, chủ trì tu viện; những người làm việc mang tính nghiệp vụ như: nhân viên nhà ga, nhân viên cảnh sát cùng với những người làm nghề nghiệp kĩ thuật như lái xe, sự khác biệt về nghề nghiệp đã dẫn đến sự hình thành đẳng cấp khác nhau. Chúng ta thường có cách nói “đầu trắng”, “đầu xanh” chính là có ý nghĩa này. Những đẳng cấp không giống nhau được hình thành bởi những nghề nghiệp, mà những người có nghề nghiệp không giống nhau này tự họ cũng cho mình đang ở trong những đẳng cấp nghề nghiệp nào đó được xã hội đánh giá, công nhận, cho nên những cử chỉ ngôn ngữ trong giao tiếp với thế giới bên ngoài cũng tự nhiên tiến hành dựa trên ý thức đẳng cấp này.
Người nhậm chức trong trong xã hội có học vấn cao rất chú ý tới phương pháp sử dụng ngôn từ khi tiếp xúc với mọi người trong gia đình. Ngược lại trình độ giáo dục thấp, người nhậm chức trong trung tầng của đẳng cấp xã hội lại không quá chú ý tới cách sử dụng ngôn từ khi nói chuyện trong gia đình, họ thường dùng những lời lẽ quê mùa, thô tục.
Từ ý thức trên dưới của đẳng cấp xã hội và sự cao thấp của thân phận như vậy, con người sẽ nảy sinh ra ý thức “mình thuộc về tập đoàn xã hội nào đó”, những ý thức thượng lưu và những ý thức hạ lưu tạo thành những tập đoàn xã hội không giống nhau. Tập đoàn xã hội của tầng ý thức thượng lựu, khi nói chuyện thường dùng những từ ngữ lịch sự, trau chuốt; tập đoàn xã hội của tầng ý thức trung lưu, khi nói chuyên dùng những từ ngữ tiêu chuẩn, rất ít trau chuốt, văn vẻ; còn những người thuộc về tập đoàn xã hội của tầng ý thức hạ lưu thường dùng những từ ngữ mất lịch sự, thô lỗ, có chút thô tục.
Sự khác biệt đẳng cấp xã hội tồn tại trong xã hội hiện đại không nhất định hình thành tính cách riêng của mỗi đẳng cấp (ví dụ mình thuộc ý thức thượng tầng xã hội, coi thường người thuộc đẳng cấp khác hoặc những người thuộc về đẳng cấp xã hội hạ tầng, đối lập với những người thuộc ý thức xã hội hạ tầng và trung tầng, hình thành nên tính cách và thái độ xử thế riêng có, nhưng dễ dàng hình thành thân phận cao thấp trong tập đoàn đẳng cấp như giữa những người mang “trưởng” nào đó và những người bình thường không mang “trưởng” nào đó rất dễ hình thành ý thức đẳng cấp.
Những người được gọi là “trưởng” nào đó thường dùng khẩu ngữ tự tôn, uy nghiêm để hạ lệnh, đặc biệt là trong quan trường, hiện tượng này rất nghiêm trọng. Người đảm nhiệm chức vụ “trưởng” nào đó đã ý thức được địa vị và tác dụng của mình và sự chờ đợi tác dụng đó của những người xung quanh, vì thế khi làm việc gì thì ngôn ngữ, cử chỉ dễ hình thành cái gọi là “tính cách sở trường”, “tính cách bộ trưởng” và tính cách địa vị. Điều này sinh ra quan hệ uy quyền và phục tùng, từ quan hệ thượng, hạ cấp mà hình thành “tính cách uy quyền” và “tính cách phục tùng” tồn tại trong quân đội cũ.
Có không ít tư liệu đã chứng minh, người thích được gọi là quan có tính tự tôn rất cao.
Có người rất để ý tới chức vụ, học vị của mình, trong tâm lý họ thích người khác gọi mình là tổng giám đốc, chủ tịch hội đồng quản trị,... Nếu có người gọi họ là ông họ sẽ không vui.
Cách ăn mặc của những người này cũng rất đặc biệt, thường khác với mọi người. Họ thường đem cách ăn mặc làm chủ đề thoả mãn tính tự tôn của mình.
Khi tiếp xúc với những người này chú ý đừng nói ra những điểm tương đồng giữa mình và họ, nếu không họ sẽ không vui. Những thứ họ dùng để thoả mãn tính tự tôn của mình rất nhiều, như tuổi tác lớn nhỏ, học vấn cao thấp, thâm niên công tác dài ngắn. Do đó, đừng nên nói ra những điểm hạn chế của họ ở phương diện này.
Người có tính cách uy quyền thì ngoan cố, cố chấp, tự ý thức
và tự chủ trương rất mạnh, trên người còn có cả tính truyền thống và tính bảo
thủ, có khuynh hướng chi phối và công kích. Người có tính cách phục tùng thường
bị động, tỉ mỉ thận trọng, không phân tích suy xét và đánh giá, đây là đặc
trưng vốn có của người có tính cách phục tùng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét