Kinh Dịch có quẻ
Thuần Đoài bàn về cái vui của trời đất và con người. Quẻ có hai quẻ Đoài
đi liền với nhau, từ trong ra ngoài. Đoài có tượng là đầm hồ. Trên Trái
đất này, ở đâu có đầm hồ, trên trời dưới nước, gió nước hòa reo, cây cỏ
tươi tốt, sinh vật nảy nở, không gì vui bằng, nên đầm hồ là tượng cho
niềm vui.
Đoài còn có tượng là người thiếu nữ. Thiếu nữ là bông hoa hé nở của đời
người. Hai quẻ Đoài có tượng hai cái hồ nước ở bên nhau, dầm thấm vào
nhau, nên vui càng vui; quẻ Đoài còn tượng cho sự cưới xin của con
người, gặp quẻ Đoài, người ta nghĩ ngay đến hai chữ “Song hỷ”.
Người xưa đọc quẻ Thuần Đoài, luận rằng: Vui thì hanh thông. Hợp đạo chính thì lợi.
Vui, dĩ nhiên là tốt lành, hanh thông. Nhưng không bất kỳ cái vui nào
cũng lợi. Phải hợp với đạo chính thì mới lợi. Thế nào là hợp với đạo
chính?
Thành thực ở trong lòng, nhu hòa ở ngoài mặt, thuận với trời, hợp với
người, thế là hợp với đạo chính. Đấy không phải đạo lý chung chung. Đấy
là thực tế cuộc sống. Giẫm đạp lên con người để vui cho mình, đua xe gây
rối loạn trật tự xã hội để làm vui cho mình, nịnh bợ để làm vui cho
người, cũng là vui, nhưng vui đấy, mà hại đấy. Tổng hợp những ý đó gọi
là đạo Vui. Kinh Dịch có nhiều “Đạo” như thế, chúng tôi đã nói đến đạo
Tùy, đạo Giếng, đạo Nhu, đạo Cách… Bây giờ đến đạo Vui.
Không hiểu sao, trong khi “đọc” quẻ Thuần Đoài, tôi luôn nghĩ đến cuộc đời và thơ của nữ sĩ Hồ Xuân Hương (thế kỷ XVIII).
Bà là người Quỳnh Lưu, Nghệ An. Cha mất khi Xuân Hương mới khoảng 14
tuổi, ở với mẹ tại Cổ Nguyệt Đường, bên hồ Tây (Hà Nội) ngày nay. Bà
thông minh, hay chữ, xinh đẹp, đa tình, có nhiều mối tình với các văn
nhân đương thời (trong đó có Nguyễn Du).
Thơ Hồ Xuân Hương có hai mảng, ví như hai hồ nước, tượng của quẻ Thuần
Đoài. Một là mảng thơ Nôm đặc sắc vừa tả tình tả cảnh vừa tạo ra dấu ấn
tính dục của nam nữ, làm thăng hoa cho ngôn ngữ Việt.
Tả bánh trôi:
Thân em thì trắng, phận em tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son
Với mảng thơ này, bà được vinh danh là Bà chúa thơ Nôm.
Một mảng thơ nữa, mới phát hiện khoảng giữa thế kỷ trước, trong một số
bài thơ tả vịnh Hạ Long (lúc ấy gọi là Hoa Phong) và trong tập “Lưu
Hương ký” gồm văn thơ trữ tình, ghi chép những cuộc tình bà đã trải qua
với giọng thơ vừa phóng khoáng gió mây trăng nước vừa trắc ẩn tự đáy
lòng.
Chiếc bách buồn về phận nổi nênh
Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh
Lưng khoang tình nghĩa mong đầy đặn
Nửa mạn phong ba luống bập bềnh
Một tài nữ, một thân phận, một đạo vui, hai hồ nước thơ ca bên nhau, dầm thấm cho nhau.
Triết lý về đạo Vui, hay nhất là hai chữ “vui quên”.
Đối với Hồ Xuân Hương, vui thơ ca mà quên thân phận mình. Đối với người
quân tử trị nước thì: “Vui vẻ mà đi trước dân, thì dân quên khó nhọc;
Vui vẻ mà xông vào chốn nguy hiểm, thì dân quên cái chết mà cũng xông
vào; Đạo vui vẻ thật lớn thay; Khuyến khích dân, không gì bằng” (Kinh
Dịch).
Phan Bội Châu bàn thêm rằng: Lời giảng chữ Vui (Duyệt) rất hay là ở hai
chữ Quên. Một chữ là dân quên khó nhọc. Một chữ là dân quên cái chết.
Việc thuận mà vui vẻ làm, đường đời trôi chảy mà vui vẻ đi, chưa phải là
cái hiệu quả của đạo Vui. Chỉ duy việc nhọc mà dân vui làm, đường chết
mà dân vui đi, mới cho ta hình dung được hiệu quả của đạo Vui. Đâu phải
cưỡng bức dân mà được thế?
Vì tâm lý thánh nhân, cốt vì lợi ích của dân mà bất đắc dĩ phải nhọc đến
dân, tạm thời tuy mệt nhọc mà yên lành được lâu dài, nên dân không lấy
sự nhọc làm nhọc. Vì muốn gây hạnh phúc cho dân, mà bất đắc dĩ phải
khiến dân xông vào chốn hiểm nguy, hiểm ở trước mặt mà hạnh phúc theo ở
sau lưng, nên dân quên cả cái chết.
Trong ba mươi năm kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, dân ta đã vui quên
như thế, làm vườn không nhà trống, phá nhà làm đường, biết bao bà mẹ anh
hùng đã rứt ruột tiễn con ra chiến trường. Đạo Vui đến thế, vui quên là
thế, lợi biết dường nào? Cái đạo Vui ấy đang là vấn đề thời sự ở trước
mắt ta.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét