Thứ Sáu, 22 tháng 3, 2013

Cùng nhau thắp sáng một ngọn đèn văn hóa Phương Đông

Tôi và Nguyễn Văn Hoạt - tác giả cuốn sách bạn đang cầm trong tay - gặp nhau hơi muộn. Số phận đưa đẩy tôi từ một chú bé ở nông thôn, do kháng chiến chống Pháp nổ ra mà thất học, đi liên lạc cho cơ quan ở chiến khu, trở thành anh công nhân quân giới, đi bộ đội, làm cán bộ công đoàn rồi viết văn, viết báo, thành người như hôm nay. Để rồi, trong phần cuối cuộc đời, về với Kinh Dịch, với Tám chữ Hà Lạc và chân dung các nhà văn dưới ánh sáng Kinh Dịch.

Số phận Hoạt thì lung linh hơn, được nhà nước ta đào tạo thành một công nhân lái máy ủi, máy cày phục vụ các công trường, nông trường suốt trong những năm chống Mỹ cứu nước, do cải tiến quản lý mà hóa ra người thất nghiệp, sau hòa bình có một thời gian dài cuộc sống bồng bênh, trong đám bụi đời, rồi chính từ bụi đời mà tự mình tu luyện thành một người giảng Tử vi có tiếng một vùng phía Nam tỉnh Lâm Đồng.

Cuộc đời chúng tôi chỉ có hai điểm giống nhau: cùng trong giai cấp công nhân, cuối đời cùng tìm về với văn hóa phương Đông. Nhưng cái duyên may khiến chúng tôi gặp gỡ và tâm đắc với nhau là ở chỗ, cùng nhau thắp sáng một ngọn đèn văn hóa phương Đông, tôi viết cuốn "Tám chữ Hà Lạc và quỹ đạo đời người" đi sâu vào Thuật toán Hà Lạc, còn Nguyễn Văn Hoạt viết cuốn "Nhân mệnh trong Kinh Dịch" đi sâu vào Thuật toán Tử Vi, cả hai thuật toán này, theo truyền thuyết, đều do một ông tổ sinh ra là Trần Hy Di tiên sinh, thời nhà Tống, Trung Hoa. Cả hai thuật toán đều khởi nguồn từ Kinh Dịch.

Theo Giáo sư Nguyễn Hoàng Phương, mà tôi là một học trò trực tiếp, còn Nguyễn Văn Hoạt là học trò gián tiếp qua công trình "Tích hợp đa văn hóa Đông Tây cho một chiến lược giáo dục tương lai", Kinh Dịch không chỉ là một kỳ thư, không chỉ là di sản tinh hoa nhất của nền văn minh cổ Đông phương, Kinh Dịch còn là một khoa học phổ quát dành cho loài người, có tính khái quát cao về Vũ trụ và Con người. Kinh Dịch còn là khoa học cơ sở để khám phá những bí ẩn kỳ diệu của con người, khám phá ra trường sinh học của con người, con người tâm linh, phác họa một đường dẫn, biến những tiềm năng thành khả năng, đi sâu khám phá vũ trụ của con người.

Kinh Dịch chỉ rõ vai trò của trời trong cuộc sống chúng ta. Đạo Người phải theo Đạo Trời, vì Dương (trời) xướng, Âm (con người) họa, vì Dương (thiết kế) Tượng, Âm (thi công) Hình.

Con người đâu phải là chúa tể của Vũ trụ, tự cho mình cái quyền phá phách môi trường một cách tùy tiện. Con người phải tuân theo các quy luật của Trời Đất theo cơ chế Thiên-Nhân hợp nhất, cơ chế đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu (cộng hưởng).

Kinh Dịch chỉ rõ vai trò của Đất, ý nghĩa các Địa linh, các Long mạch, Nguyên khí trong sự hình thành nhân tài, văn hóa của dân tộc. Nguyên lý Thiên-Địa-Nhân hợp nhất - theo Nguyễn Hoàng Phương - cho rằng, do sự tồn tại của Đại Ngã trong cấu trúc và bản thể của mình, con người hợp với Trời Đất thành Một. Về mặt sinh học, nguyên lý đó biểu hiện bằng Năng lượng của Trời đi xuyên qua Luân xa 7 - huyệt Bách Hội (trên đỉnh đầu) - chảy xuống theo đường tủy sống. Mặt khác, Năng lượng của Đất đi qua Luân xa 1 (ở giữa hậu môn và bộ phận sinh dục) rồi chảy lên phía trên, cũng theo con đường tủy sống.

Trong thuật ngữ Triết cổ Đông phương, Trời được xem là Dương, còn Đất là Âm. Như thế trong con người thì Dương giáng, Âm thăng. Chính hai quá trình Dương giáng Âm thăng này của năng lượng Trời Đất trong tủy sống của nhân thể đã tạo ra được mọi nguồn năng lượng cho sự sống con người. Do các năng lượng này giao nhau, nên người xưa nói rằng, Con người là cái vạch nối giữa Trời và Đất.

Tất cả những cái đó gắn bó khăng khít với sự sống còn của con người, với những biến đổi, đều được cổ nhân dạy trong Kinh Dịch, với nhiều mã khóa khác nhau, khi đơn giản, khi hóc hiểm…

Một trong những mã khóa ấy là môn toán Tử Vi (có tác giả gọi là khoa), một thuật toán dự báo vận mệnh con người bắt đầu từ năm, tháng, ngày, giờ sinh. Là một thuật toán có nhiều uy tín, độ tin cậy về kết quả ứng nghiệm hoàn toàn phụ thuộc vào các chuyên gia có khả năng liên kết, suy diễn, phân giải các nhóm tín hiệu gọi là sao, biến những ý nghĩa tàng ẩn trong các nhóm sao đó thành lời giải cụ thể về diễn biến cuộc đời từng chặng, từng năm tháng, thậm chí ngày giờ, trong từng mối quan hệ xã hội gắn bó nhất với con người.

Có khoảng 110 sao tàng ẩn trong 12 khung của một đồ bản mang tên ngôi sao sáng nhất, có năng lượng dồi dào nhất là sao Tử Vi. Chính vì phụ thuộc vào sự tinh thông của chuyên gia, nên môn Tử Vi có vẻ như bí ẩn, mật truyền, và dễ bị biến báo, lợi dụng và gây mê hoặc.

Ngày nay, với công cụ tin học huyền diệu, việc lập một lá số Tử Vi không còn bí hiểm nữa, nhưng việc luận giải thì vẫn đòi hỏi một trình độ nhất định, cùng với một khả năng liên tưởng, linh cảm và trải nghiệm không thuộc về số đông. Bởi vì, con người là một động vật có linh (Lời dẫn), một vạch nối giữa Trời và Đất, một trong “tam tài” Thiên, Địa, Nhân. Bởi vậy, những công trình khám phá về các môn toán dự đoán học của phương Đông, một tài sản văn hóa của phương Đông, với tư cách là những công trình khoa học, bao giờ cũng có sức lôi cuốn khác thường, và không biết thế nào cho thỏa. Trong đó, có cuốn sách của anh công nhân Nguyễn Văn Hoạt. Khác với nhiều cuốn sách Tử Vi, việc khám phá thuật toán Tử Vi lần này được thực hiện dưới ánh sáng Kinh Dịch và Phật học.

Toàn bộ Kinh Dịch, nếu tóm lại một chữ thì đó là chữ THỜI.

Bạn đọc sẽ thấy ý tưởng về Thời của vũ trụ, thời của con người quán xuyến khắp trên các trang sách. Biểu đồ Tử Vi có gắn thêm 12 quẻ Dịch mô tả các thời của con người. Bắt đầu từ cung Tý gắn quẻ Thuần Khảm có tượng là Nước. Theo bảng khởi nguyên, sắp xếp vị trí ban đầu của 14 chính tinh, sự di chuyển của các chính tinh được mô tả theo chữ thời một cách rất sinh động. Sao Tử Vi giống như ngôi vua, bắt đầu từ Tý, cũng như mọi sự sống đều khởi sinh từ nước. Vua tất phải đi tìm sự nghiệp, vì thế tiếp theo sau ở cung Sửu là quẻ Sơn Thủy Mông. Mông có tượng suối nước mới khởi trên núi, có nghĩa mù mờ, non yếu, đây chính là thời khai sơn lập nghiệp. Thật dễ hiểu và thú vị.

Giải về tính lý các sao cũng gắn với chữ Thời.

Ta hãy xem tác giả nói về sao Phong Cáo.

“Sao Phong Cáo: Khởi từ cung Dần, lấy cung Dần là giờ Tý, đếm thuận theo chiều kim đồng hồ, tới giờ sinh, đến cung nào thì an sao Phong Cáo vào cung đó. Sao này là lá cờ của vua, tục ngữ có câu: “cờ đến tay ai người ấy phất”, vì thế, Phong Cáo chính là thời phất cờ của người có lá số, khi luận giải, ta biết cờ sẽ phất ở đâu, khi nào, phất về cái gì. Khi giải vận hạn, ta biết khi nào mới phất cờ, cờ bị nước, hay bị mưa, bị cháy hay bị rách.”

Khi trình bày bảng Tử Vi, tác giả giúp cho chúng ta hình dung con người như một CÂY. Trên “cây con người” đó, đâu là gốc cây, thân cây, lá cây? Mệnh tính theo ngũ hành nạp âm (ví dụ Kiếm phong kim) là GỐC; các quẻ bát quái gắn với từng cung (ví dụ Thuần Khảm ở Tý), can chi tứ trụ là THÂN; 12 cung là LÁ, dân gian ta gọi LÁ SỐ là vì vậy. Con người là động vật có linh, những gì thuộc về Thân cây chính là phần Xác, những gì thuộc về gốc, đó là phần Hồn. Phần Xác thì thông với Địa, phần Hồn thông với Thiên. Cái “cây con người” đã có gốc, thân, lá, còn phải có đất để trồng thì mới trọn vẹn. Nói cách khác: Lá tốt là do thân cây tốt, thân cần được đứng vững trên một gốc cây tốt. Gốc cần được trồng ở nơi đất tốt nữa mới hoàn hảo. Trên bảng Tử Vi, Đất chính là Cục trên thiên bàn (ví dụ Thổ ngũ cục), Cục ở đây hình dung như CỤC ĐẤT. Thật là sâu xa, cũng thật là giản dị.

Cuốn sách này chủ yếu bàn về môn Tử Vi, nhưng trong quá trình luận giải, tác giả liên kết với một số môn khác nằm trong Dự đoán học của Kinh Dịch. Ví dụ với môn Phong thủy, Tứ trụ, Tam nguyên Cung Phi, Bốc phệ, Tám chữ Hà Lạc… Các môn này tuy khác nhau về cấu trúc, tín hiệu (ví dụ môn Hà Lạc dùng 64 quẻ Dịch và 384 hào, môn Tử Vi dùng 110 sao), “nhưng khi luận giải thì không trái nhau, mà hầu như cùng soi sáng những khía cạnh khác nhau của một vận mệnh.”

“Bởi mỗi con người là một tiểu vũ trụ, cuộc đời mỗi con người là một pho sử, cuộc sống thiên hình vạn trạng, có phần Nổi, có phần Tàng.”

“Chúng tàng ẩn trong nhau, hòa quyện và liên kết rất uyển chuyển”. (Lời dẫn).

Sự liên kết này khiến cho những lời giải trở nên lung linh, mềm mại vô cùng. Tôi đã nhiều lần đối chiếu bảng Hà Lạc với bảng Tử Vi, thấy các sao cũng là từ các quẻ Dịch mà ra. Sao Tử Vi chính là quẻ Thuần Càn, Tử Vi ở Ngọ là Thuần Càn hào 5. Sao Thiên Phủ là Thuần Khôn, Thiên Phủ ở Thân là Thuần Khôn hào 5.

Chúng tôi cùng xem mệnh cho nhà văn Nguyễn Khải.

Nhà Tử vi Nguyễn Văn Hoạt nói, mệnh ông này khổ lắm, mệnh ở cung Mùi gặp quẻ Địa Hỏa Minh Di trấn ngự, nên không tránh được sự tổn thương, sáng đấy mà đau đấy, lại có sao Mộ là cuộc đời luôn bị che lấp, ẩn giấu, đánh mất mình; chỉ khi ra ngoài, cung Thiên Di ở Sửu, thì mới ngẩng mặt lên với đời, làm gì được nấy. Nhưng cung Thiên Di thuộc quẻ Sơn Thủy Mông, nên chỉ làm những việc mông lung không rõ ràng, thì được.

Tôi xem Hà Lạc, thấy ông được quẻ Thiên Lôi Vô Vọng hào 2, Vô Vọng là không càn bậy, người này suốt đời sống vô tư, trong sáng, sống tự nhiên như cây cỏ trong trời đất, khi cày ruộng, cấy lúa không cần nghĩ đến lúc gặt, có làm là có ăn.

Đối chiếu hai lời giải với thực tiễn, thấy đúng như thế.

Nhà văn Nguyễn Khải chỉ rời xa nơi ở, “đường trong mây”, đi Đông đi Tây, Bắc Nam, Nam Bắc, thì mới viết được, sáng suốt và trong trẻo, viết cái nào được cái ấy, nhưng cuối đời than thở, gặp cản trở không phát huy hết được cái tôi trong văn chương, nên chưa tới được đỉnh cao như mong muốn (Chiến sĩ - Nghệ sĩ - Báo Văn Nghệ số 17 -18 năm 2007). Liên kết để thấy ra những khía cạnh khác nhau trong cuộc đời là như thế.

Tác giả cũng dừng lại nhiều lần trong nhiều trang để liên kết, luận giải Đạo Ông Bà, phong tục truyền thống thờ tổ tiên, uống nước nhớ nguồn của người Việt. Anh chăm sóc các tín hiệu về lễ hiếu, tang ma, mồ mả, bàn thờ, ngày giờ khâm liệm, mai táng… đáp ứng các yêu cầu trong “đời thường” của người bình dân. Nhưng anh không sa vào các nghi thức cầu cúng thần thánh, bùa chú giải trừ ma quỷ, có màu sắc mê hoặc.

Trong khi luận giải các vận hạn, anh rất chú ý các yếu tố tương tác, phát huy tính chủ động của chủ thể, tránh các tai ương, giảm nhẹ các tổn thất, lấy cái này gánh cho cái kia, chọn phương hướng, chọn thời gian, tìm cái tối ưu trong hành động. Con người biết Thời của mình, chính là để dùng cái Thời đó cho đúng lúc, đúng chỗ.

Con người có thể tìm lối sống bù đắp cho chỗ thiếu cân bằng âm dương của mình. Ví dụ, một người có nhật nguyên ngày sinh là Bính Hỏa mà trong Tứ trụ, cả bảy chữ còn lại không có chữ nào thuộc hành Mộc, có thể nói, người này từ nhỏ đã đau yếu, khi trưởng thành vất vả, trí óc có thể kém thông minh. Vậy, ta có thể (học ông Thiệu Vĩ Hoa) chủ động tăng thêm hành Mộc.

Nên mặc đồ màu xanh, nên ở phòng có màu xanh, dùng mùng mền, chăn gối màu xanh, nên nằm giường gỗ, ở nhà xung quanh nhiều cây cối. Khi ăn uống, nên ăn thức ăn thảo mộc, ngũ cốc, rau quả. Khi ốm nên dùng thuốc Nam (có nguồn gốc từ cây cỏ). "Đức năng thắng số" là vậy. Tính biện chứng trong luận giải Tử Vi cũng là như vậy.

Giaó sư Nguyễn Hoàng Phương, khi nghiên cứu Kinh Dịch, nhận thấy Kinh Dịch có dấu ấn của Phật học. Triết cổ Đông phương quan niệm rằng, vũ trụ có trật tự chia thành nhiều cõi khác nhau, trong đó sự sống được biểu hiện với nhiều mức độ khác nhau.

Phật giáo chia cõi trời thành những cõi Tiên, cõi Trời Dục giới, cõi Sắc giới, cõi vô sắc giới. Những cõi khác nhau có những đặc tính khác nhau về thời gian, không gian, về các phương thức năng lượng, thông tin, các hình thái sinh học. Chẳng hạn có cõi còn sử dụng đến năng lượng, ánh sáng mặt trời, có cõi lại tự mình có hào quang chiếu sáng. Một ngày của cõi Trời có thể bằng rất nhiều năm của cõi trần chúng ta. Sự khác nhau về thời gian này, theo ý kiến Nguyễn Hoàng Phương, không thể kết luận ngay là một điều huyền hoặc. Ngày nay, lý thuyết tương đối của Anh-xtanh đã cho thấy tính chất tương đối của thời gian.

Nguyên lý Phản Phục một nguyên lý cơ bản của cấu trúc Kinh Dịch, cho ta thấy con người bắt đầu từ đâu, đến đây để làm gì và sẽ trở về đâu. Trong nguyên lý Phản Phục có khái niệm Tuyến Nội, Tuyến Ngoại. Tuyến Ngoại trỏ con đường đi từ Tiên thiên đến Hậu thiên (cõi trần), còn Tuyến Nội trỏ con đường đi từ cõi Hậu thiên trở về cõi Tiên thiên (cõi Trời).

Theo khái niệm Tuyến Ngoại, con người được bắt đầu tạo nên từ một chương trình nào đó, bắt nguồn không phải từ cõi trần (quả Đất chúng ta). Trong nền văn hóa Đông phương có từ “Thiên hạ” , tức là một cộng đồng “hạ” từ “Thiên” xuống.

Còn theo Tuyến Nội để trở về, chính là theo con đường trở lại về nguồn, về lại với Đại Ngã, nghĩa là về Trời. Từ “biến thiên” là biến về trời. “Hoàn vũ” cũng là về trời. Vậy, về trời là về đâu?

Nguyễn Văn Hoạt đã thầm lặng nghiên cứu theo hướng dẫn này và bất ngờ tìm thấy phép Quy Nạp 64 quẻ Dịch quả là thần diệu, nói rằng tất cả vận mệnh con người đều “biến thiên”, lên một cõi nào đó trên cõi trời. Anh đã trình bày phép Quy Nạp, dùng phép nhân giữa hai hào âm dương trong một quẻ Dịch liên hệ với nhau theo tính chất Bao Trùm (bắt đầu từ tuyến Ngoại) và tính chất Bước Sóng (tuyến Nội), ta sẽ được một kết quả là: Bất cứ quẻ Dịch nào cũng được quy nạp theo thời gian thành quẻ Thuần Càn, tượng là Rồng, mà không gian là Trời. Tất cả đều hướng Thiên.

Dựa vào phép Quy Nạp, thuật toán Hà Lạc có thể cho chủ thể biết mình được quẻ trời cho là gì, và đi theo những bước nào, cuối cùng đầu thai trở về cõi người hay lên trời theo cõi nào. Nhưng trong cuốn sách về Hà Lạc gần đây (Khám phá một tia sáng văn hóa phương Đông - Nhà xuất bản Văn học - 2008) tôi chưa trình bày công thức này.

Còn Nguyễn Văn Hoạt thì đọc được cái điều vi diệu đó trên bảng Tử Vi của mình. Anh gợi ý bạn đọc hãy xem ba yếu tố: Bản mệnh, Cục, và Can nhật nguyên (ngày sinh) mà phán đoán. Những khám phá này mới trình bày như một phương pháp luận. Và cốt lõi của cuốn sách này cũng vẫn là xây dựng một phương pháp luận, hơn là hướng dẫn luận giải. Một phương pháp luận đúng đắn là đường dẫn nhanh chóng đến chân lý. Anh kêu gọi các bạn thuộc thế hệ sau tiếp nối, cùng nhau thắp sáng một ngọn đèn của nền văn hóa phương Đông chúng ta.

Anh công nhân Nguyễn Văn Hoạt viết cuốn sách này trong trạng thái “vô thức”, nghĩ đến đâu viết đến đó, cũng có thể nói là xuất thần. Trong bản thảo đầu tiên của anh còn đầy những dấu vết của một vùng đất đầy năng lượng của vũ trụ mới khai sơn khởi nghiệp, giống như cung Sửu trong địa bàn Tử Vi với quẻ Sơn Thủy Mông. Vì vậy, anh đã nhờ hai chúng tôi, Xuân Cang và Nguyễn Chính Tuấn sửa sang thêm. Chúng tôi sửa sang về bản thảo vi tính, về cấu trúc và hình thức văn bản, chút ít về văn vẻ, chính tả, còn lại giữ nguyên giọng văn, ngữ nghĩa với phong cách dân gian của một người đã trải nghiệm dày dạn.

Tôi xin kết thúc bài này bằng cách ghi lại một câu nói sau đây của Cố Giáo sư Nguyễn Hoàng Phương:

“Cha ông chúng ta rất sáng suốt, đã để lại cho chúng ta một di sản thực là quý báu qua Triết cổ Đông phương. Qua di sản đó, chúng ta và cả hậu thế, hiểu được con đường đi là Mệnh của mình trong cuộc sống và biết chọn Thời, tức là thời điểm tối ưu để hành động. Sự thống nhất về tính quy luật cho các giới vô sinh là Quỹ đạo, cho các giới Hữu sinh là Mệnh.
Chúng ta dạy trong các nhà trường quỹ đạo của viên đạn, của chiếc tàu… Nhưng chúng ta lại cho rằng, chỉ có vật vô sinh mới có quỹ đạo. Còn con người, do “làm chủ vũ trụ”… không cần theo một quỹ đạo nào ràng buộc cả! Và lên án cái gọi là Mệnh.

Phủ nhận cả tính thống nhất của vũ trụ, phủ nhận cả tính quy luật của cuộc sống, một số chúng ta đã tự đánh rơi chính mình trong vòng quay của vũ trụ.”

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét