Quẻ Dịch số 36 có
tên là Địa Hỏa Minh Di. Tượng quẻ là Lửa trong lòng Đất, ánh sáng không
thoát ra được, nên ánh sáng bị tổn thương. Nên nghĩa quẻ là Minh Di,
“minh” là sáng, “di” là đau, sáng đấy mà đau đấy.
Nguyễn Hiến Lê giảng: Đây là quẻ nói về người quân tử ở thời u ám gặp
nhiều gian nan, chỉ có cách giữ trinh (chính) của mình thì mới có lợi.
Nghệ thuật quẻ Minh Di là che ánh sáng đi, hoặc giấu cái sáng, đừng để
người ta sợ. Như Cơ Tử, một hoàng thân của vua Trụ. Trụ vô đạo. Cơ Tử
can không được. Đành phải giả điên, làm người giúp việc, để khỏi bị
giết, mong có cơ hội làm lại đất nước. Võ vương, một ông vua tốt, diệt
Trụ rồi, trọng tư cách Cơ Tử, mời Cơ Tử ra giúp nước, song ông không
chịu. Sau, Võ vương cho ra ở Triều Tiên, lúc ấy vẫn còn là một hòn đảo
giữa biển, lập một nước riêng. Như vậy là, Cơ Tử giấu sự sáng suốt của
mình để giữ vững chí. Hiện nay, Hàn Quốc còn coi Cơ Tử như quốc tổ.
Phan Bội Châu nhấn mạnh: Câu "che cái sáng của mình" với câu "làm không
sợ cái sáng của mình" chỉ thay đổi mấy chữ mà có hai thủ đoạn rất hay.
Che cái sáng của mình là thủ đoạn của thánh hiền khi gặp hoạn nạn. Làm
không sợ cái sáng của mình là thủ đoạn của thánh hiền khi được quyền
thống ngự thiên hạ. Đó là hai cách ứng dụng kỳ diệu của Dịch.
Nước ta thời nay có Giáo sư Nguyễn Văn Trương, theo tôi, chính là một người Minh Di ấy.
Ông là người có tài, nhiều kiến thức về sinh thái học, nhưng suốt hai
phần ba cuộc đời, vì lý do gì đó, không được trọng dụng. Cho đến năm bảy
mươi tuổi, vẫn chưa có thành quả cho xứng với tài của ông. Ông yêu đất
nước, yêu thiên nhiên, hàng ngày nhìn thấy thiên nhiên bị tàn phá, con
người bị thiên nhiên trả thù (lụt, lũ nước, lũ đá), đau lắm mà chưa làm
gì được.
Đọc Dịch, ông tâm sự với tôi: Là vì mình không biết che cái sáng của
mình và làm cho người ta không sợ cái sáng của mình. Ông quyết định hành
động theo cách của người quân tử thời Minh Di. Ông đứng ra thành lập
một viện nghiên cứu khoa học dân lập mang tên Viện Kinh tế sinh thái.
Lần đầu tiên ở nước ta có một Viện khoa học không phải do Nhà nước lập
ra, không nhận chi phí hành chính, không ăn lương do Nhà nước trả. Toàn
bộ chi phí của Viện (trụ sở, phương tiện đi lại, lương nhân viên...) do
các tổ chức Sinh thái học quốc tế tài trợ căn cứ vào các đề tài cải
thiện môi trường mà họ quan tâm.
Các nhà khoa học tham gia Viện với tư cách tự nguyện. Đó là những người
tài giỏi có danh tiếng như các giáo sư Nguyễn Năng An, Trần Thanh Bình,
Tôn Thất Chiểu, Dương Hồng Dật, Vũ Khiêu, Nguyễn Pháp, Võ Quý v.v...
Đứng đầu Viện là Nguyễn Văn Trương, một ông già gần 80 tuổi, mảnh khảnh
và quắc thước, một nhân vật đầy uy tín trong làng sinh thái học trong
nước và quốc tế. Hàng ngày, Viện trưởng đến cơ quan bằng xe tắc-xi hoặc
xe ôm. Nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã đến thăm ông ở nhà riêng 42 Trần
Xuân Soạn - Hà Nội, ủng hộ và khuyến khích chủ trương này.
Công việc của Viện là nghiên cứu xây dựng những Làng sinh thái tiêu biểu
cho từng vùng trong nước (vùng cát, vùng núi thấp, núi cao, vùng đồng
bằng chiêm trũng...) biến những nơi bị hủy hoại về môi trường, trở thành
nơi có sự sống giàu có, đa dạng, bền vững mang dấu ấn của sinh thái
học. Những làng sinh thái này sẽ là mẫu mực để nhân dân trong vùng xây
dựng theo. Viện đã xây dựng được hàng chục làng sinh thái như thế ở các
vùng miền khác nhau và đã thắp hương kính cáo với tổ tiên và các nhà
khoa học tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám.
Hình bên là mô hình cải tạo một diện tích đất thuộc xã Phú Điền, huyện
Nam Sách, tỉnh Hải Dương, một vùng úng ngập "chiêm khê mùa thối". Các
nhà sinh thái học đã giúp dân đào và đắp, biến một diện tích đất thành
ba tầng: tầng dưới cùng là ao chứa nước, nuôi cá, tầng giữa là ruộng
trồng lúa, hoa màu, tùy theo mùa, tầng trên cùng là vườn cây hoa quả.
Vậy là hết cảnh sống ngâm da, chết ngâm xương, thật tài tình. Thế mà
hàng ngàn năm nay, dân ta chưa biết tới.
Ánh sáng sinh thái học từ Nguyễn Văn Trương và các nhà khoa học lặng lẽ
tỏa ra. Cũng trong những năm này, ông còn được tiến cử làm Tổng biên tập
bộ Từ điển Bách khoa đầu tiên của Việt Nam. Lại được phong tặng Anh hùng thời đổi mới.
Giáo sư, nhà văn Vũ Khiêu đã tặng ông đôi câu đối rất hay sau đây:
Trồng cây cùng với trồng người, đôi khóm anh hoa mừng Tổ quốc
Làm thầy chẳng tày làm sách, trăm bồ chữ nghĩa hiến nhân dân.
Nguyễn Văn Trương từ trần năm Đinh Hợi (2007). Ngày 16.5 nhuận sắp tới
là ngày giỗ thứ hai của ông. Tôi viết bài này để thắp một nén hương cúng
ông
SÁNG VÀ ĐAU THỜI XƯA
Vừa qua, tôi có bàn quẻ Địa Hỏa Minh Di trong thời hiện đại.
Minh Di là “Sáng và Đau”. Lửa trong lòng đất, nên ánh sáng thoát ra dễ
bị tổn thương.
Dịch học khuyên người quẻ Minh Di nên giấu cái sáng và không làm cho
người ta sợ cái sáng của mình. Như GS TS Nguyễn Văn Trương lặng lẽ tỏa
sáng bằng cách lập Viện Khoa học sinh thái dân lập, gây dựng các làng
sinh thái mẫu mực cho dân làm theo.
Bây giờ kể chuyện xưa.
Đời nhà Thương có vua Trụ tàn bạo, hiền thần phẫn uất, có người như Vi
Tử bỏ đi, Tỷ Can tuẫn tiết. Vua định đuổi Cơ Tử, một người hiền tài, ra
khỏi kinh đô. Cơ Tử biết là thời của mình chưa đến, bèn giả điên và làm
"người giúp việc" cho một hoàng thân. Nhờ vậy, vua Trụ hết nghi ngờ.
Đến khi vua cha mất, vua con nối ngôi, biết tài Cơ Tử, mời ông ra giúp
nước. Cơ Tử chỉ xin được đi gây dựng một hòn đảo ngoài khơi. Tại đây,
ông dạy dân mở nước, lập thành nước Triều Tiên ngày nay. Người Triều
Tiên hiện vẫn coi ông như quốc tổ.
Chu Công Đán soạn lời hào 5 quẻ Địa Hỏa Minh Di lấy hiện tượng Cơ Tử làm
gương thời Sáng và Đau. Phan Bội Châu bình giảng quẻ Minh Di, có dẫn
một bài văn bia rất hay của Liễu Tông Nguyên như sau: "Ông Cơ Tử vì cớ
sao không đi mà cũng không chết? Vi Tử bỏ đi vẫn là người trí; Tỷ Can tử
tiết vẫn là người trung. Duy Cơ Tử giả người cuồng mà sống trơ ngồi đó,
chẳng phải tham sống sợ chết hay sao? Không! Không! Tâm sự của thánh
hiền há phải óc phường lưu tục, mà phán đoán ra được đâu.
Xin thử nghĩ: Lúc bấy giờ, vận nhà Thương còn chưa hết, sự nghiệp nhà
Chu còn chưa thành. Văn Vương còn giữ đạo làm tôi. Nhân dân còn nhiều
người luyến chúa, mà trung thần như Tỷ Can thì đã chết quách, thân thần
như Vi Tử thì đã bỏ đi. Nếu một mai lòng trời chánh họa, tổ tiên nhà
Thương còn anh linh, xui khiến lão Trụ kia vô cớ chết trước, con Trụ là
Võ Canh tất nhiên nối ngôi, hậu chúa biết sửa chữa việc đổ nát cho cha,
thần dân nhà Thương trông mong có người chỉnh đốn.
Nếu một người quốc thân hiền thánh như Cơ Tử mà cũng theo gót Tỷ Can, Vi
Tử, thời, ngọn lửa tàn còn thoi thóp đó, toan cậy vào ai thổi nhen bây
giờ? Thầy Cơ Tử sở dĩ nhẫn nhục dương cuồng, mong hãy tồn thân, sẽ có
ngày khôi phục nước cũ, chẳng phải là đại trung, đại trí, đại dũng, đại
nhân hay sao?".
Ngay như Chu Văn Vương - cha của Chu Công Đán - bị vua Trụ giam 8 năm ở
ngục Dữu Lý, đã tỏ vẻ rất nhu thuận, không chống đối Trụ, mà để hết tâm
trí vào việc viết Lời Thoán giảng các quẻ trong Kinh Dịch, nhờ vậy, Trụ
không có cớ gì để giết, sau phải thả ông ra.
Sử nước ta có chuyện thời Lê sơ, Lê Nghi Dân cướp ngôi vua, gây bè đảng
củng cố thế lực trong triều đình, các hiền thần muốn bảo vệ triều Lê
chính đáng từ thời Lê Thái Tổ, đều bị sát hại không làm gì được. Hiền
thần Nguyễn Xí bị bọn gian thần theo dõi gắt gao, đã phải giả bị mù, hầu
như không bao giờ ra khỏi nhà. Trong giây phút cùng cực, ông đã phải
dùng "khổ nhục kế", để cho chúng tin là mình mù thật, ông đã dằn lòng
giẫm chết đứa con út chưa đầy năm của mình. Nhờ vậy, khi có thời cơ, các
đại thần như Đinh Liệt, Nguyễn Xí cùng quần thần lật đổ Nghi Dân, lập
Lê Thánh Tông, một vị vua anh minh, có tài đức, làm cho non sông Đại
Việt rạng rỡ lên suốt 4 thập niên cuối thế kỷ XV.
Lại như trường hợp Phan Bội Châu, bị thực dân giam lỏng ở Huế, đã sử
dụng 10 soạn bộ Chu Dịch, con cháu chép thành 30 tập giấy học trò, lưu
giữ truyền lại cho chúng ta hôm nay. Ông đã thực hành đúng lời quẻ Minh
Di do Chu Văn Vương vạch ra trong ngục Dữu Lý: Thời ánh sáng bị tổn hại,
chịu gian nan giữ điều chính, thì lợi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét