Tôi đang biên khảo
một cuốn sách về Kinh Dịch ở Việt Nam, đến quẻ Sơn Thủy Mông nói về giáo
dục trẻ thơ, giời xui đất khiến trước mắt tôi bỗng hiện lên cuốn sách
“Giải pháp giáo dục” của Hồ Ngọc Đại (Nhà xuất bản Giáo dục - 1991).
Đây là cuốn sách phát kiến cải cách giáo dục ở nước ta, chúng tôi cho là
rất hay, đã có thực nghiệm hơn hai chục năm nay và kết quả rực rỡ,
nhưng chưa được biến thành cuộc cải cách rộng lớn. Kết quả rực rỡ nhất,
ai cũng thấy, là thuở bé của Giáo sư Ngô Bảo Châu - người vừa được giải
thưởng lớn nhất hành tinh về toán học, đem lại niềm vui cho đất nước -
đã lớn lên trong Trường thực nghiệm giáo dục của Giáo sư Hồ Ngọc Đại.
Tôi nói thế này, anh Hồ Ngọc Đại đừng giận, trong thư mục trích dẫn của
anh ở cuối sách, không hề có sách Kinh Dịch, nhưng quẻ Sơn Thuỷ Mông cứ
hiện lên lồng lộng trong rất nhiều trang sách của anh.
Xin nói vài ví dụ.
Quẻ Sơn Thuỷ Mông có hình ảnh con suối từ núi xuống, cứ len lách lớn lên
dần, cho đến khi nó hoà nhập vào dòng sông. Con suối ấy là trung tâm
của dòng chảy, các dốc núi, ngách núi là sự hướng dẫn dòng chảy. Đó cũng
là hình ảnh đứa trẻ thơ lớn lên một cách tự nhiên giữa cuộc đời.
Trường học thì giống như những dốc núi, ngách núi. Trường học có thể làm
cho suối chảy mạnh, có thể làm cho suối tù đọng. “Giải pháp giáo dục”
cũng coi các em bé đến trường là một thực thể tự nhiên, học trò là trung
tâm của giáo dục, là nhân vật chính của nhà trường, chứ không phải thầy
giáo. Nhà trường cổ truyền lấy ông thầy làm trung tâm. Còn nhà trường
hiện đại phải xuất phát từ học trò, và rút cục phải đi đến học trò. Học
trò là linh hồn và lẽ sống của nhà trường (Sách đã dẫn, tr. 33).
Quẻ Sơn Thuỷ Mông chọn những suối có dòng chảy thuận lợi nhất làm tiêu biểu, tổng kết thành những quy trình dòng chảy, như phát mông (cho trẻ thoát khỏi gông cùm của mờ tối), bao mông (bao dung trẻ thơ), khốn mông (khốn khổ về không có thầy giỏi), đồng mông (trẻ thơ dễ dạy nhất), kích mông (chớ kích thích làm cho trẻ bướng).
“Giải pháp giáo dục” tìm ra Công nghệ giáo dục giải quyết đúng những yêu
cầu trên: Làm cho trẻ tiếp cận ngay với cái mới hiện đại, học tiếng
trước học chữ, học đếm ngay từ các phép đếm hiện đại chứ không riêng
phép đếm số thập phân (phát mông). Làm cho trẻ thấy đi học là niềm vui, là hạnh phúc chứ không phải là gánh nặng (bao mông).
Phải tạo ra một lớp thầy giáo của công nghệ giáo dục mới, đây được coi là một “chỗ hiểm” của giải pháp mới (khốn mông).
Nhà trường cổ truyền đào tạo học trò theo khuôn mẫu người khác (quân
tử, thánh hiền), còn nhà trường hiện đại thì đào tạo mỗi em thành chính
nó, vì mỗi cá nhân là sự kết tinh tự nhiên đời sống của chính mình,
trong hoàn cảnh sống của chính mình (đồng mông).
Hết sức tránh cưỡng bức trẻ làm mất xu hướng tự nhiên của trẻ ở lứa
tuổi mẫu giáo - mầm non (như học chữ sớm), bắt trẻ đi vào các tổ chức
độc đoán, cứng nhắc (ở các lớp mẫu giáo - thường là do lợi ích của người
lớn hơn là của trẻ), cả hai xu hướng này vào hùa với nhau thì ít ra
cũng cướp mất hạnh phúc tuổi thơ của đời người (kích mông).
Hồ Ngọc Đại nhấn mạnh một tai hoạ đối với trẻ em ngày nay ở lứa tuổi mẫu
giáo: Mọi sự cưỡng bức, độc đoán đều là dã man, mọi nỗi oan ức của trẻ
đều tiết ra chất độc ngày càng độc hơn, làm hủy hoại sự phát triển tự
nhiên lành mạnh của một đời người! Các nhà giáo dục lứa tuổi này, tôi
nghi lắm, dễ là những tội phạm “tốt bụng” gây ra vụ án mạng giết chết
hạnh phúc tuổi thơ, chỉ vì họ dám hy sinh đặc điểm lứa tuổi cho ý muốn
võ đoán, thiển cận của chính họ, mà họ cứ đinh ninh như thế là đúng
(Sđd, tr. 84). Hào 6 “kích mông” của quẻ Sơn Thuỷ Mông được soi sáng ở
tầm hiện đại.
Tư tưởng quán xuyến của “Giải pháp giáo dục” là làm cho trẻ thấy đi học
là hạnh phúc, chứ không phải là gánh nặng, gồm những trách nhiệm, thi
cử, các lò luyện, được gọi một cách văn hoa là “vì tương lai con em
chúng ta”. Việc học là “vì hạnh phúc, ngay ngày hôm nay, của con em
chúng ta” mà không cần phải làm khổ nó (Sđd, tr. 226). Như dòng suối
trên núi, đang hoà vào sông biển, hình ảnh đẹp của quẻ Sơn Thuỷ Mông.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét