Thứ Sáu, 22 tháng 3, 2013

CHUYỆN QUẺ KHÔN (3)

Nhà thơ Cao Bá Quát (1809-1854) một hôm xem truyện Tàu, gặp một chuyện rất hay, rất lạ, viết nhanh một bài thơ ghi lại cảm xúc của mình.

Đời nhà Tống có ông Triệu Thanh Hiến, khi được bổ làm Trấn thủ đất Thục (tỉnh Tứ Xuyên ngày nay), ông chỉ dắt theo một con ngựa, hành trang chỉ một cây đàn, một chim hạc, đi một mình, không gia đình, không gia nhân, trèo non lội suối đi nhận nhiệm vụ trông coi dân, làm việc nước. Khi làm quan chỉ nhận lương, không nhận bổng lộc nào thêm. Một nhân vật như thế, ngày xưa ở nước Tàu, quả thật là hiếm có. Các đời sau này, và đời bây giờ, lại càng hiếm.

Nhiều người đọc sách thấy chuyện ấy, hoặc không tin có thật, hoặc cho qua, nhưng họ Cao thì dừng lại, âm thầm suy ngẫm. Đây chính là một ước mơ, một khát vọng của đời ông. Ông muốn có một sự thay đổi trong đời sống các quan chức, bản thân ông không thực hiện được vì ba lần đi thi hội không đỗ; một lần làm quan chấm thi, chỉ vì cùng bạn là Phan Nhạ dùng muội đèn chữa những chữ phạm quy, cứu 24 bài thi, việc bị lộ, phải tù đầy, tra tấn trong hai năm. Ông cũng đã làm thơ về “những con rận” ở Lục bộ trong triều đình, những cảnh “chợ búa” trong các cơ quan công sở.

Câu chuyện Triệu Thanh Hiến và bài thơ “Một chiếc đàn, một chim hạc” của Cao Bá Quát chính là âm hưởng quẻ Thuần Khôn trong Kinh Dịch. Thuần Khôn nghĩa quẻ là Thuận (Thuận lợi, Hiền từ). Càn tượng là Trời, thì Khôn tượng là Đất. Càn cương kiện thì Khôn nhu thuận. Quân tử rèn đức mạnh như Trời để không ngừng nghỉ, đó là bài học rút ra từ quẻ Càn. Quân tử rèn đức dày như Đất để tải muôn vật, đó là bài học rút ra từ quẻ Khôn.

Khôn có 4 đức Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh. Bốn đức cao quý ấy, quẻ Khôn có đủ như quẻ Càn, chỉ riêng về đức Trinh (chính và bền) thì Khôn hơi khác: Tuy chính và bền, nhưng phải Thuận. Nghĩa là phải theo Càn, như Đất phải theo Trời. Khôn tuy mạnh mẽ đấy, dày dặn đấy, sinh trưởng, nuôi dưỡng, công lớn như Trời, nhưng chớ khởi xướng, mọi việc cứ thuận theo thì thành công.

Nhân vật Triệu Thanh Hiến chính là hình ảnh của đức Chính và Bền, đi làm quan mà trung thực, thanh liêm, một lòng vì dân vì nước. Cũng là hình ảnh của đức nhu thuận: không ồn ào, khoe khoang, một chiếc đàn, một chim hạc làm vui, tuân theo mệnh triều đình, vượt gian nan, khó khăn, một mình trên con đường sạn đạo thăm thẳm xa xôi. Xin mời bạn đọc thưởng thức tài thơ Cao Bá Quát qua bài thơ “Một chiếc đàn, một chim hạc”. Thơ chữ Hán, chúng tôi chỉ tải phần dịch nghĩa.

Chú ngựa đi vào đất Thục
Miền Thành Đô có kẻ làm quan trong sạch
Một chiếc đàn rảnh rang ở nơi làm việc
Con hạc lẻ bạn, đứng yên dòm qua rèm
Mua sắm chi chút như nhà sư
Nhận lương, không nhận bổng
Chỉ thừa chiếc đuôi cháy đen
Thêm chiếc áo lông chim
Bóng cây um tùm
Sương mù lạnh run
Tiếng đàn nơi công thự yên tĩnh
Sương bao quanh, làm núi đá nước Thục như nhọn thêm
Có ai nghe biết đến tiếng (đàn) hay chăng?
Âm thanh như tiếng một bậc thầy
Tay lựa phím, mắt đung đưa
Khước từ thói đời ấm lạnh.


“Thừa chiếc đuôi cháy đen”, là thừa con ngựa. Nơi đến làm quan là một vùng núi non hiểm trở, đường đi thuộc loại đường sạn đạo, nghĩa là ghép bằng gỗ, chỉ có thể đi bộ, con ngựa không dùng để cưỡi được, nên ngựa hóa ra thừa. (Ai xem truyện Tam Quốc thì biết loại đường này ở nước Thục).

“Thêm chiếc áo lông chim”, nghe có vẻ sang trọng, nhưng đó không phải áo lông chim khoác lên người, mà chính là con chim hạc lẻ bạn “đứng yên dòm qua rèm”.
Trong đời sống quan chức, có lương còn có bổng. Có khi, bổng gấp nhiều lần so với lương. Đây chính là thời sự của chúng ta hôm nay. Nhân vật trong bài thơ từ chối nhận lương có thêm bổng.

Mấy câu cuối bài, chính là ông Cao hỏi chúng ta đấy: Các bạn có người biết đến tiếng đàn ấy hay không?

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét