Thứ Sáu, 22 tháng 3, 2013

CHUYỆN QUẺ CÀN (3)

Càn có bốn đức lớn: Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh.

Thời Càn là thời của sự lớn mạnh, khởi động theo đạo Trời, dẫn dắt muôn loài. Chúng tôi đã kể chuyện quẻ Càn (tên đầy đủ là Thuần Càn) để lại dấu ấn minh triết trong ca dao, tục ngữ Việt, trong thơ Việt (xin xem Lao Động cuối tuần số 31 ra ngày 11-8-2011).

Bây giờ là quẻ Càn trong hành động lịch sử của người Việt.

Trong lịch sử Việt Nam, thời Lý Thái Tổ có thể là một thời Thuần Càn (thịnh trị) tiêu biểu. Trong kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội vừa qua, điều này đã rõ. Sau đó, đến thời Lê Thánh Tông, cũng rất xứng đáng được coi là thời Thuần Càn.

Lê Thánh Tông (1442-1497), tên thật là Lê Tư Thành, là con thứ tư của vua Lê Thái Tông (1434-1442) và bà tiệp dư (tiệp dư là một ngôi cao trong thứ tự các cung phi). Khi bà tiệp dư Ngọc Giao có thai Lê Tư Thành, bà đã bị bà phi Nguyễn Thị Anh mưu hại. Nguyễn Trãi và người thứ thiếp là Nguyễn Thị Lộ đã cứu giúp Ngọc Giao và đưa đi lánh nạn. Lê Tư Thành sinh năm Nhâm Tuất (1442) ở chùa Huy Văn (ngày nay thuộc quận Đống Đa, Hà Nội). Đây là thời hào 1 dương quẻ Thuần Càn: Như con rồng còn ẩn dưới thấp, đừng dùng làm gì vội.

Năm 1459, sau một biến cố trong triều đình, Lê Tư Thành lên ngôi, tức là vua Lê Thánh Tông, lấy niên hiệu là Quang Thuận. Năm đó, ông chỉ mới 18 tuổi. Đây là thời hào 2 dương quẻ Thuần Càn: Như con rồng ở ruộng, ở vào thời hiển đạt, gặp được người cao quý thì có lợi.

Ngay sau khi cầm quyền, được sự phò tá của những người chính trực trong triều, Lê Thánh Tông đã thực hành nhiều cuộc cải tổ nhằm phát triển đất nước và củng cố vương triều. Hoàng đế Lê Thánh Tông ra sắc chỉ đầu tiên là chỉnh đốn lại quân đội. Ban hành luật quân đội. Ông thường thân chinh đi tuần phòng ở các vùng biên ải xa xôi cùng với binh lính. Dấu tích trong một lần tuần tra tại khu vực cửa biển và vùng biển Quảng Ninh là một bài thơ đề trên vách núi đá, mà sau này, dân gọi tên là núi Bài Thơ ở thành phố Hạ Long ngày nay (Nguyên).

Lê Thánh Tông cải tổ mạnh mẽ về hành chính, lập ra 6 bộ trông coi bao quát những việc lớn trong nước. Các quan chỉ được làm việc tối đa đến tuổi 65 và ông bãi bỏ luật cha truyền con nối cho các gia đình có công - công thần. Bộ Quốc triều hình luật của nhà Hậu Lê được hoàn thiện trong thời Lê Thánh Tông, nên còn được gọi là Bộ luật Hồng Đức, gồm 13 chương với 700 điều. Nhờ bộ luật này, Đại Việt đã bước đầu hình thành một quốc gia và thuộc loại sớm trên thế giới (Hanh).

Đặc biệt quan tâm các chính sách nhằm phát triển như sửa đổi luật thuế khóa, điền địa, khuyến khích mở chợ. Ông từng chỉ dụ, trong dân gian hễ có dân là có chợ để lưu thông hàng hoá, mở đường giao dịch cho dân. Các nghề thủ công như: dệt lụa, ươm tơ, dệt vải, nghề mộc, nghề chạm, nghề đúc đồng cũng phát triển. Kinh đô 36 phố phường sầm uất, nhộn nhịp đến tận ngày nay (Lợi).

Lê Thánh Tông đẩy mạnh phát triển giáo dục, đào tạo nhân tài. Ngoài Hàn lâm viện, Quốc sử viện, nhà Thái học, Quốc tử giám là những cơ quan văn hóa, giáo dục lớn, Lê Thánh Tông còn cho xây kho Bí thư chứa sách. Đặc biệt, đã sáng lập Hội Tao đàn (một Hội nhà thơ) hội tụ những nhà văn hóa có tiếng đương thời mà Lê Thánh Tông là chủ soái. Ông sáng tác nhiều bài thơ Nôm nổi tiếng, cảm xúc bắt nguồn từ quẻ Càn, lấy vũ trụ làm hình mẫu. Lê Thánh Tông khuyến khích các quan lại và tự mình tích cực sử dụng chữ Nôm như một sự tự tôn và tự cường.

Trong một bài thơ Nôm, Lê Thánh Tông viết về mình:

Trống dời canh còn đọc sách
Chiêng xế bóng chửa thôi chầu
.

Năm 1464, ông rửa oan cho Nguyễn Trãi, cho sưu tầm thơ văn Nguyễn Trãi để lưu lại hậu thế. Lê Thánh Tông viết về Nguyễn Trãi: Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo (Tâm hồn Ức Trai sáng tựa sao Khuê). Lê Thánh Tông khởi xướng và cho lập văn bia ở Văn Miếu lần đầu tiên ở vào năm 1484 để ghi danh, tôn vinh những người tài và đức của dân tộc. Câu “Hiền tài là nguyên khí quốc gia” có từ thời này (Trinh).

Trong lịch sử Việt Nam, không tìm thấy nhiều triều đại có hình mẫu lý tưởng của thời Thuần Càn (đủ cả Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh) như thời Lý Thái Tổ và Lê Thánh Tông.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét