Theo nhà nghiên cứu Thu Giang Nguyễn Duy Cần, cốt tủy của Kinh Dịch nằm trong câu này: Dịch có Thái cực, Thái cực sinh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, Tứ tượng sinh Bát quái.
Trong cái cốt tủy ấy thì cái thần của nó là ở 5 chữ Thái cực sinh Lưỡng nghi. Chữ “sinh” đây có nghĩa “biến”, chứ không có nghĩa từ cái không sinh ra cái có.
Đây là lịch trình đại biến hóa của vũ trụ và vạn vật. Khởi điểm của lịch
trình biến hóa là Thái cực. Vậy, Thái cực là gì? Là một khối “khí Tiên
thiên” vô cùng huyền diệu, trong đó ẩn chứa hai khí âm dương.
Nói “Thái cực sinh Lưỡng nghi”, là nói từ trong khối lớn khí ban đầu của
vũ trụ vốn tiềm ẩn hai khí âm dương, hai khí đó xoay vần và ứng hiện
thành vạn vật. Nghi ở đây là khí. Lưỡng nghi là hai khí: khí âm và khí dương. Như hai dòng điện, một âm một dương gặp nhau phát ra ánh sáng.
Tất cả mọi cuộc biến hóa lớn nhỏ gì trên đời đều do từ hai lẽ âm dương
mà ra. Có cả âm lẫn dương mới có biến hóa. Dịch lại nhận rằng không phải
chỉ có một Thái cực ban đầu. Mỗi sự vật đều có hai lẽ âm dương ràng
buộc nhau trong Thái cực, bất cứ trong một Thái cực nào, lớn hay nhỏ đến
đâu.
Không có sự vật nào trong đời mà tự nó không phải là một Thái cực, từ
việc cực nhỏ đến việc cực đại. Đây là một quy luật rất quan trọng: dù là
một phần tử nhỏ bé rời rạc đến bực nào cũng chứa đựng đầy đủ một toàn
thể như cái đại toàn thể của vũ trụ.
Hay nói một cách khác, người là một tiểu vũ trụ, cùng đồng một cấu tạo
tổ chức như một đại vũ trụ. Thiên, Địa, Nhân hợp nhất là như thế. Vạn
vật cùng một thể (vạn vật đồng nhất thể) là như thế. Lớn nhỏ như nhau,
thảy đều là một Thái cực. Nhỏ như con kiến, lớn như con người.
Nghe nói thế vẫn còn khó hiểu quá.
Đúng vậy. Người Việt ta không mấy khi dùng hai chữ Thái cực. Người Việt
ta đã biến hóa hai chữ Thái cực thành chữ Trời và Trời Đất. Hóa ra, Thái
cực không phải là cái gì mơ hồ, huyền bí mà ở ngay trong ta, trong tâm
hồn ta, trong ứng xử ngày thường. Chỉ cần vấp chân đau điếng, ta thốt
lên: Trời ơi!
Tục ngữ: Trời cho hơn lo làm; Trời có
mắt (Nhà huyên xui chớ lo xa / Hễ trời có mắt thì ta lệ gì - “Nhị độ
mai”); Trời chẳng phụ ai; Trời không cho hùm có vây; Trời đánh thánh
vật; Trời đất hương hoa, người ta cơm rượu; Trời không dung, đất không
tha; Trời xui đất khiến; Trời rung đất lở; Trời sầu đất thảm; Trời chu
đất diệt; Trời không chịu đất, Đất chẳng chịu trời; Trời sập có đất đỡ;
Của thiên trả địa (Của trời trời lại lấy đi / Giương hai mắt ếch làm chi
được trời).
Trong ca dao:
Trên trời có đông có tây
Có nam có bắc, có cây ngô đồng
Trên trời có cả cầu vồng
Có cái mống cụt đằng đông sờ sờ
Trên trời có cả bàn cờ
Có ngục quỷ sứ, có chùa thiên lôi
Trên trời có lửa mình ơi
Có mưa có nắng, có người ta mong
Trên trời có sao Thần Nông
Lại có chú Cuội nằm trong trăng già
Tua Rua trên bốn dưới ba
Nhị thập bát tú gọi là thất tinh.
Các câu ca dao, tục ngữ trên chứa chất đủ thứ: cái ta nhìn thấy, cái ta
tưởng tượng, cái chỉ có trong truyền thuyết, huyền thoại, cái trong nỗi
niềm tình cảm, cái trong cuộc làm ăn (mưa nắng, Tua Rua), cái triết lý sâu xa (Trên trời có lửa mình ơi),
có đủ yếu tố kế thừa Tam giáo đồng nguyên Phật, Lão, Nho. Bao trùm lên
tất cả là một “nhân vật” vĩ đại, ở trên tất cả, sinh ra tất cả, ở trong
tất cả, vừa có thật, vừa huyền bí: đó là Trời, là Trời Đất. Đó là minh
triết Việt về Thái cực, lấy nguồn trong văn hóa dân gian.
Nguồn trong văn hóa bác học thì phải nói đến khám phá tâm đắc nhất của
Hải Thượng Lãn Ông, nhà Đại danh y Việt Nam về vai trò của Mệnh môn Hỏa
nằm giữa hai quả thận. Đó là Mệnh của con người, được biểu diễn bằng quẻ
Khảm (Nước) của Kinh Dịch, sánh ngang với vai trò của Tâm được biểu
diễn bằng quẻ Ly (Lửa). Ông nhiều lần nhấn mạnh: “Mệnh môn Hỏa là Thái
cực trong thân người” (“Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh”).
Cho đến nay, tư tưởng này vẫn còn là một bí ẩn huyền diệu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét