Phương thức lấy quẻ
trong Mai Hoa Dịch Số rất đa dạng. Nhưng trên tổng thể có thể quy làm hai loại:
1. Phương thức lấy
quẻ tiên thiên là ta lấy quẻ bằng số tự.
2. Phương thức lấy
quẻ hậu thiên chính là lấy vật tượng thành quẻ gia giờ xem để tính hào động.
Phép lấy quẻ Tiên
thiên chú trọng dùng số lấy quẻ. Trong lấy quẻ Tiên thiên thường dùng nhất có mấy
phương thức sau: Chiêm thời gian (căn cứ vào năm tháng ngày giờ), chiêm vật số
âm thanh (phàm thấy vật phẩm hoặc nghe âm thanh đều lấy số lượng làm quẻ thượng
gia giờ xem làm quẻ nội tính hào động), chiêm văn tự số tự...
Mà trong phép lấy
quẻ hậu thiên chủ yếu là dùng vật tượng kết hợp với phương vị lấy quẻ, thêm giờ
xem lấy hào động. Phương pháp thường dùng nhất chủ yếu có: Chiêm nhân vật,
chiêm màu sắc, chiêm động tĩnh.
Trong ứng dụng dự
đoán, quẻ tiên thiên và hậu thiên có cách luận khác nhau đôi chút. Khác biệt lớn
nhất chính là ứng dụng quái từ, hào từ Kinh Dịch. Phép lấy quẻ Tiên thiên trong
luận đoán thường thường không sử dụng quái từ, hào từ, nhưng phép lấy quẻ hậu
thiên thì khác, nó ứng dụng cả quái từ, hào từ trong luận đoán, dĩ nhiên sử dụng
như vậy cũng là có nguyên nhân.
Mai Hoa Dịch Số
cho rằng trong thiên địa đại đạo vốn chỉ có một lý, tức là dịch lý. Lý này từ
lúc thiên địa hình thành đã có. Quy luật tác dụng của cái lý này làm cho sự vật
vận động sinh sôi nẩy nở. Khi nhân gian trở nên văn minh có ngôn ngữ ghi chép,
trên thế gian liền xuất hiện hai loại tồn tại mà trên bản chất cùng một lý (dịch
lý) gọi là tiên thiên và hậu thiên.
Vì vậy Mai Hoa Dịch
Số cho rằng trên thế gian lúc trước khi có sách Dịch thì Dịch lý hay còn gọi là
quy luật cũng đã tồn tại. Do đó sự vật tự có số của nó, quẻ lấy bằng số là trạng
thái tồn tại tiên thiên của sự vật. Cho nên trong luận đoán phép lấy quẻ tiên
thiên không cần thiết xem hào từ. Chỉ dùng đến thể dụng, quái tượng để phán
đoán.
Đương nhiên về phép
lấy quẻ hậu thiên cũng tương tự như vậy, lúc này sách Kinh Dịch hình thành đã
chỉnh lý quy nạp vạn sự trên thế gian. Mỗi sự vật đều có thuộc tính của nó, như
vậy lấy được quẻ thì quẻ này quy về trạng thái hậu thiên. Cho nên trong phán đoán cần
tham khảo hào từ.
Mặt khác, trong luận
đoán ứng kỳ quẻ tiên thiên và hậu thiên cũng có khác biệt nhất định.
Do quẻ tiên thiên
là trạng thái nguyên thủy của sự vật cho nên trong khắc ứng lấy quái khí làm ứng
kỳ. Như quẻ Càn thuộc kim thì ứng kỳ là những năm, tháng, ngày thuộc kim: canh,
tân, thân, dậu hoặc Càn tại phương vị hậu thiên ta quy về địa chi Tuất, Hợi. Mà
phép hậu thiên bất đồng, bởi vì quẻ là trạng thái hậu thiên của sự vật cho nên
trong ứng kỳ thường thường phải quay lại số tiên thiên. Hơn nữa trạng thái hậu
thiên tự thân là lấy quẻ trong động thì động thái vận động cũng là một tham chiếu
đoán ứng kỳ. Cho nên phép lấy quẻ hậu thiên trong đoán ứng ký căn bản là: Số
toàn quẻ gia số giờ. Lại căn cứ sự động tĩnh để tham chiếu: đi, đứng, ngồi, nằm.
Tóm lại vô luận là
đoán tiên thiên, hậu thiên, sự việc thời gian dài thì đoán năm tháng, gần đoán
ngày giờ.
(Tử Diệp tiên sinh)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét