XEM MỘ - TÌM MỘ
Mộ phần, nhà cửa, cha mẹ, xe cộ đều dùng phụ mẫu. Hỏi việc gì trả
lời việc ấy.
Hỏi vê mộ dùng hào phụ mẫu làm
mộ, phụ mẫu không lộ dùng hào ứng.
Quẻ có 2 hào phụ mẫu, hào nào hợp với hào thế hoặc tử tôn là mộ
của gia đình.
I. Mộ sạch chưa
Mộ sạch là mộ chưa cải, phần thịt đã tiêu hết, nếu chưa tiêu hết là chưa sạch.
Mộ sạch, chưa sạch
và động mộ đều dùng lục thân phụ mẫu làm dụng nên phải nghe hỏi rõ ràng.
Mộ chưa cải còn
ván gỗ nên hào mộ phải hợp với mộc dần mão, dần mão khăc hoặc lâm long,
hào mộ lâm trân mộ đất chưa xây.
Mộ đã cải là hào
thổ hỏa hoặc lâm tước.
Nếu người hỏi không
rõ ràng phải kiểm tra xem mộ họ hỏi có phải là mộ của gia đình họ không. Có 2
dụng thần xác định đâu là mộ của họ (sinh hợp hào thế hoặc tử tôn).
Hào mộ quá vượng
lâm hổ là mộ chồng chất lên nhau.
Hào mộ phải tĩnh,
mộ động là đang làm hoặc mới cải.
Hào mộ vong mộ vô
chủ thất lạc.
Hào mộ vượng vong
lâm hổ, lâm tước mộ đã xây có bia nhưng không có hài cốt.
Hào mộ bị chi trụ
khắc hoặc hào động khắc mộ chưa sạch, nếu nhị tam hợp đã sạch.
Hào mộ không bị
chi trụ hào động khắc mộ đã sạch.
Hào mộ đã cải
(không có ván) bị xung khắc mộ bị động, dần mão động khắc rễ cây chọc vào
tiểu, Xà Hổ động khắc có hang rắn, chuột, ...bị nhật nguyệt phá mộ bị sạt lở.
II. Tìm mộ
1. Dựa vào quy luật của âm dương, trước nam, sau bắc, trái đông, phải
tây.
Phương vị này không phụ thuộc
chi hào và thứ tự hào.
2. Cách làm
a) Lập quẻ xác định ngôi mộ cần tìm
b) Điều kiện
- Mộ cần tìm phải được xác định
trong phạm vi hẹp như cồn,
nghĩa trang hoặc 1 vùng cụ thể.
- Mộ cần tìm phải sinh hợp với hào
thế, tử tôn chứng tỏ ngôi mộ cần tìm thuộc gia đình.
- Mộ cân tìm vong hoặc bị xung
khắc.
c) Trực tiếp đứng ở khu vực có mộ cần tìm hoặc hỏi ngưòi nhờ tìm mộ
- Căn cứ vào quẻ xác định mộ ở
phương nào so với người đứng được hỏi: trước sau trái phải.
- Căn cứ vào quẻ nêu đặc điểm ngôi
mộ: như lâm long: có cây, vũ: trũng có nước, xà: đường,
sợi dây thừng, vật nhỏ dài, hổ: hòn đá, mảnh bát, vật tròn nhỏ trắng, tước:
hòn gạch, trần: đồng ruộng, vườn.
-Hình dạng của khu vực như nghĩa
trang, cồn căn
cứ vào quẻ. Càn: đa giác lồi,
đoài: đa giác lõm, khôn: vuông, cấn: vuông không đều, khảm: con thuyền, li:
quả đào, chấn: chữ nhật, tốn: dải áo, chéo cờ.
Quẻ dịch do 2 quẻ đơn xếp lên nhau, nến dùng hình
dạng 2 quái đơn ghép lại.
Mộ năm khu vực nào của cồn, căn cứ thứ tự chi hào của
quẻ. Ví dụ hào mộ 6: đầu cồn.
Chú ý: Mộ không phụ thuộc thứ tự
quẻ.
Ví dụ: Phụ mùi hào 1 và 6, 2 mùi
liền kề, không xét 1 mộ đâu cồn 1 mộ cuối
cồn. Nếu khác chữ
phải tính 2 nơi theo vị trí của địa chi.
d) Nêu một số đặc điểm của ngôi mộ
- Địa hình trên mặt đất: gần
đường, gần ngôi mộ mới cải, gần mộ có bia, ...
- Dưới
mộ: mộ nam hay nữ, mộ có tiểu không, viên gạch có bị vỡ không, xương tốt
hay xấu, trong tiểu có vật gì (cối trầu: quẻ cấn, kính, ...), mộ có chồng chất
không, mộ chồng chất là hào mộ nhị tam hợp. nếu hợp cục có hào Dần
Mão, hoặc lâm long có mộ còn ván gỗ. Trong các hào nhị tam hợp, hào nào hợp thế
hoặc tử tôn, mộ đó của gia đình.
Hào mộ có 2 phụ
mẫu cùng chữ có 2 mộ liền kề, xung nhau 2 ngôi mộ đối đầu nhau.
Hào mộ bị hào lâm
tước xung khắc xây tường đè lên mộ. Bị hào tí hợi lâm xà xung khắc có dòng nước
chảy xối vào mộ. hào mộ động hóa dần mão có rễ cây chọc vào mộ hoặc ván
gỗ để trên mộ.
Ví dụ 1: Giờ tị 29 Nhâm Dần tháng tuất năm tuất, học viên Bắc Giang hỏi mộ bạn sạch chưa. (T.Không Thìn Tỵ)
Quẻ Thiên Sơn Độn Hỏa Sơn Lữ
Phụ |
N.Tuất |
|
|
Quan |
K.Tỵ |
Hổ |
Huynh |
N.Thân |
Ư |
O |
Phụ |
K.Mùi |
Xà |
Quan |
N.Ngọ |
|
|
Huynh |
K.Dậu |
Trần |
Huynh |
B.Thân |
|
|
Huynh |
B.Thân |
Tước |
Quan |
B.Ngọ |
T |
|
Quan |
B.Ngọ |
Long |
Phụ |
B.Thìn |
|
|
Phụ |
B.Thìn |
Vũ |
Trả lời:
- Mộ chưa sạch.
- Người này mắc bệnh phổi, dùng nhiều sâm nên khó tiêu.
Giải thích:
- Quẻ có 2 hào phụ mẫu, phụ tuất
lâm nguyệt lâm hổ, mộ to có bia, có tiểu, mộ đã cải.
- Phụ thìn hào 1 vong động hóa mão, bị
dần khãc, mộ còn ván gỗ.
- Thìn tuất xung, dần mão khắc, mộ
chưa sạch.
- Huynh thân ứng là bạn, thân phá
tuyệt ở ngày dần, bệnh phổi.
- Hào 6 tuất lâm nguyệt ở quẻ càn là dương dược. Tuất vượng sinh thân, đã dùng quá nhiều sâm
(Phạm Văn Các)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét