Năm 1975 tôi
đang tuổi sung sức (47 xuân xanh), thế mà “sức khỏe” tồi tệ vô cùng. Qua hai
cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, tôi đã chịu đựng những ngày gian khổ,
ác liệt trên rừng núi Tây Nguyên, Hạ Lào... Bệnh sốt rét dai dẳng, lá lách sưng
to, người xanh, yếu... Năm 1954, tập kết ra Bắc, được uống thuốc dự phòng chống
sốt rét trong quân đội. Qua 3 năm uống thuốc dự phòng, bệnh sốt rét và lá lách
sưng đã tan biến hết. Sức khỏe tôi trở lại bình thường... Nhưng không ngờ đến
năm 1975, sức khỏe tôi lại xuống dốc một cách thảm hại. Không phải tôi đau ốm
gì, vẫn cơm ngày 3 bữa, mỗi bữa chén veo đi 3 bát cơm ngon lành. Nhưng phải cái
bệnh đáng nguyền rủa là (xin bạn thương cho mà đừng cười nhé), khi gần vợ, đầu
óc rất thích thú “chuyện ấy” mà “thằng bé” không chịu vâng lời. Tôi dỗ dành, nó
không nghe; tôi lấy tay “đánh nó” nó cứ ù lì, ỉu xìu như bánh đa mắc mưa. ôi chao!
“Trên bảo dưới không nghe” thì là loạn rồi. Loạn lắm rồi! Trời đất ơi! Tôi vừa
giận, vừa buồn! Giận là giận “thằng bé” hư hỏng quá; buồn là vì thấy vợ tôi cứ
nằm quay mặt ra, hết thở ngắn rồi lại dài! Tôi lo và buồn cả ruột...
Cũng may năm
1975, tôi vẫn công tác trong quân đội, tôi thường đi công tác xa nhà luôn nên
cũng hạn chế bớt điều kiện làm cho vợ giận, vợ buồn. Vì nếu luôn luôn có mặt ở
nhà mà chẳng “làm nên công cán gi” thì mới thật là buồn. Người ta đã mách cho
tôi uống bao nhiêu thuốc Bắc, thuốc Nam mà chăng hề lay chuyển được “thắng bé”
tí nào...
Năm 1979, tôi
đi công tác vào thành phố Hồ Chí Minh, bạn tôi rủ đi thăm cụ Khương Duy Đạm ở
đường Hậu Giang. Cụ Khương là một lương y và châm cứu sư nổi tiếng ở miền Nam
khi chưa giải phóng. Cụ Khương biết tôi cũng làm nghề đông y, châm cứu nên cụ
muốn tôi đến chơi, nói chuyện y học cho vui vẻ. Thực ra, sau này tôi mới hiểu
cụ muốn trao cho tôi một số kinh nghiệm quý báu mà một đời cụ đã tích lũy được.
Trước khi tôi trở về Hà Nội, cụ đã tặng tôi cuốn sách “Y đạo dưỡng sinh: Phòng và chống lao, suyễn”, trong đó có 2 bài
thuốc kinh nghiệm diệu phương bí truyền. Tôi không ngờ 2 bài thuốc đó và phép
tập luyện dưỡng sinh của cụ Khương đã giúp tôi khỏi bệnh bất lực! Ôi thật quý
hơn vàng! Hơn 20 năm qua, nhờ thuốc, nhờ tập luyện và giữ vững chế độ ăn uống
hợp lý mà tôi không đau ốm gì và “thằng bé” lại rất ngoan “trên bảo gì thì bé
vâng lời ngay”.
Tuy năm nay
tôi đã 75, nhưng vẫn còn hào hứng “chuyện ấy”, nhưng vợ tôi đã trên 60 nên
chẳng còn ham muốn gì nữa. Nghĩ lại những năm tôi có bệnh tôi mới thông cảm nỗi
khổ tâm, lòng bực bội của vợ. Bây giờ đêm nằm bên vợ, “thằng bé” lại muốn “tí
chút” cho vui vẻ, nhưng vợ không thích thì tôi phải dùng đến “phép thần” là
phép vận khí của đạo lão bắt “thằng bé” ngoan ngoãn nằm im thin thít...
Trong bài báo
này, tôi không nhằm mục đích truyền bá “phép thần” cho các bạn mà chính là phổ
biến 2 bài thuốc gia truyền của cụ Khương đã trao cho tôi.
Bài thuốc thứ nhất: THẦN TIÊN TỬU
Sa sâm 20g, Phục linh, 12g, Bạch truật 8g;
Cam thảo 8g, Thục địa 20g, Bạch thược 12g; Xuyên khung 12g, Đương quy 16g, Cao
hổ cốt 6g; Lộc giác giao 8g, Câu kỷ tử 8g, Đại hồi 6g; Thương truật 8g, Mộc qua
8g, Khương hoạt 8g; Độc hoạt 8g, Ngưu tất 8g, Đỗ trọng 8g; Tục đoạn 8g, Tần
giao 8g, Trần bì 8g; Đại táo 8g, Đào nhân 8g, Nhục quế 4g.
Ngâm thuốc
với 2 lít rượu ngon trong 7 ngày đêm, dùng 120g đường phèn (không dùng mật ong
hay đường trắng tinh chế), nấu với nước lã, nửa lít, đun sôi, để nguội. Rót
rượu thuốc ra chai riêng. Pha nước đường phèn, lắc đều để uống dần. Lại cho vào
thuốc 2 lít rượu ngon, ngâm lần thứ 2 này trong 1 tháng và cho nước đường phèn
vào như lần thứ nhất, uống 1 ly con sau bữa ăn tối.
Tác dụng: Bồi
bổ thần kinh, khí huyết, tăng cường sinh lực.
- Bệnh nhân
hấp hối sắp chết, uống vào có thể sống thêm 36 tiếng; - Người già uống tăng
thêm tuổi thọ; - Liệt nửa người do tai biến mạch máu não, thận yếu, uống sẽ
khỏi; - Người liệt dương uống trong 2 tháng thì khỏe, có thể sinh con; - Trước
khi hành lạc, uống 3 ly con thì không biết mệt
Bài thuốc thứ hai: BẢN LONG CỐ BẢN THÁNH
ĐƠN
Lộc giáo giao 80g, Sa sâm 200g, Thục địa
80g; Thiên môn 80g, Chánh hoài 80g, Ngưu tất 80g; Mộc hương 80g, Nhục thung
dung 80g, Hắc phụ tử (sao) 40g; Phúc bồn tử 120g, Thổ ty tử 160g, Thạch xương
bồ 40g; ích trí nhân 80g, Địa cốt bì 60g, Hổ cốt 60g; Phục linh 60g, Sinh địa
80g, Mạch môn 80g; Sơn thù 80g, Đỗ trọng 80g, Ba kích 80g; Viễn chí 40g, Xa
tiền tử 80g, Câu kỷ tử 30g; Ngũ vị tử 80g, Xuyên tiêu 10g, Bá tử nhân 80g;
Trạch tả 80g.
Tất cả các vị
đem tán bột mịn. Nước cơm làm hồ, trộn bột thuốc giã nhuyễn, viên bằng hạt ngô,
bỏ lọ, dùng dần. Ngày uống 2 lần, mỗi lần uống 5 viên vào lúc 10 giờ và 20 giờ.
Tác dụng: Với
người gầy yếu, nhan sắc héo sầu, liệt dương, tinh thần suy nhược, râu tóc bạc,
đi đứng khó khăn, chân gối đau nhức. Phụ nữ bụng dưới đau trằn, lãnh cảm, lâu
không con.
Uống 1 tháng
hết liệt dương, 2 tháng gương mặt trẻ sáng, mắt sáng hơn trước, uống 3 tháng
tóc bạc sẽ đen trở lại. uống lâu ngày thân thể nhẹ nhàng, mạnh khỏe, minh mẫn.
Tuy nhiên
thuốc không thể phát huy tác dụng mạnh mẽ như trên nếu dùng thuốc mà không chịu
rèn luyện thân thể, ăn uống vô độ, rượu chè bia bọt be bét, thức ngủ không đúng
giờ giấc điều độ, lòng không thanh thản, lạc quan yêu đời, vắng nụ cười trên
môi thì dù bạn có dùng thuốc bao nhiêu đi nữa thi hiệu quả cũng đến nhưng rất
chậm. Đây là lời tâm tinh của người đã trải nghiệm. Mong các bạn làm đúng khi
dùng thuốc.
(theo: Tri
thức trẻ)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét