Có nhà phê bình gọi
Nguyễn Duy là “thi sĩ thảo dân”. Có người gọi Thơ Nguyễn Duy là “ca dao
hiện đại”. Đó là những cái tên sang trọng. Và đều đúng và hay cả. Nhưng
hôm nay, giáp Tết âm lịch, tôi chỉ muốn gọi anh bạn Nguyễn Duy nhà thơ
tôi rất tâm đắc bằng cái tên của Kinh Dịch: Nhà thơ Thủy Địa Tỷ.
Là vì, Nguyễn Duy có mệnh giời cho là Thủy Địa Tỷ.
Thưa bạn đọc, không phải dễ mà được dùng tên quẻ để gọi tên thơ được đâu. Có 4 tiêu chí cho việc gọi tên này.
1- Thơ có phản ánh cái “mệnh giời cho” không?
2 - Thơ có chữ Tượng giời cho không?
3- Thơ có chữ Thời giời cho không?
4 - Thơ có chữ Dụng giời cho không?
Một tác phẩm thơ có đủ 4 tiêu chí này thì được gọi là “tác phẩm mệnh”,
mà hễ là tác phẩm mệnh thì đều hay cả, vì đó là tác phẩm “giời cho”.
Vậy, Nguyễn Duy là thế nào?
Tỷ là sánh vai (gần gũi, gặp dịp thuận tiện để phát triển). Tượng quẻ là
trên Đất có Nước, nước thấm xuống đất, đất hút lấy nước, cho nên có
nghĩa là gần gũi thân thiết, giúp đỡ nhau. Quẻ có một hào dương cương,
trung chính (hào 5) thống lĩnh 5 hào âm, có cái tượng người trên cao
được toàn thể dân chúng (hay người dưới) tin cậy, quy phục, do đó mà gọi
là Tỷ. Người được quẻ này sống trong tình thân thiết của những người
xung quanh, sánh vai, hòa hợp, thu phục được mọi người, từ đó mà có
nhiều thành công quan trọng. Thơ Nguyễn Duy có đầy đủ các tiêu chí nói
trên để hình thành các tác phẩm mệnh giời cho, là Thủy Địa Tỷ.
Cái mệnh “sánh vai, gần gũi” (Tỷ) bộc lộ ngay trong bài thơ “Trên sân
trường” của chú bé 6 tuổi Nguyễn Duy Nhuệ (sau này bút danh là Nguyễn
Duy):
Đứa chơi đáo, đứa chơi vòng
còn tôi đứng nhìn dòng sông
tôi không chơi đáo vì không có tiền
có tiền tôi cũng không chơi
vì tôi không muốn bạn tôi mất tiền
tôi vui tôi ngắm tôi nhìn
con sông có bóng con thuyền thả câu.
Sánh vai ở trong “Tre Việt Nam” thật là kỳ diệu:
Bão bùng thân bọc lấy thân
Tay ôm tay níu tre gần nhau thêm.
Mệnh Thủy Địa Tỷ có tượng là Nước và Đất.
Tượng Nước thì như trong bài thơ “Dòng sông Mẹ”:
Điệp khúc sông uốn lượn trong lòng
Đò dọc đò ngang lênh đênh nỗi nhớ
………………….(Dòng sông Mẹ)
Tượng Đất trong thơ về bà mẹ:
Ta đi trọn kiếp con người
Cũng không đi hết những lời mẹ ru
về cỏ dại:
Bò bê ơi, gặm ta đi
Thịt da ta lại xanh rì bao la
Bàn chân ơi, đạp lên ta
Mà sang cuối đất, mà qua cùng trời.
Chữ Thời trong thơ Nguyễn Duy nổi bật lên trong thời Chống Mỹ và Đổi mới của người Việt ta. Tránh bom dưới hầm kèo chữ A:
Ngả lưng trong hầm chữ A
Nhìn lên lại thấy mái nhà lợp tranh.
Bài thơ về Cầu Bố (tỉnh Thanh quê Nguyễn Duy) liên tưởng đến người cha đi dân công:
Cỏ đã mọc ai còn thấy nữa
Vết xe thồ vẹt đỉnh Trường Sơn
Ai thấy nữa ông già đầu bạc xóa
Đẩy xe thồ ngang dọc lũng Tà Cơn.
Đọc tập thơ mới in gần đây “Quê nhà ở phía ngôi sao” (Nhà xuất bản Thanh
Hóa, 2012) bài thơ nào cũng bàng bạc một chữ Thời. Nghe tin hài cốt vua
Duy Tân được mang về Huế, Nguyễn Duy có ngay bài thơ, đọc xong không
thể không thấy rằng, đây là thơ viết trong thời Đổi mới:
Thế là đã trở về đây
Một con người tận chân mây cuối trời
Tấm thân phiêu dạt quê người
Linh hồn vẫn ở lại nơi quê nhà
Ngai vàng vừa cũ vừa xa
Ánh vàng vương miện cũng là hư không
Mặt trời vẫn mọc đằng Đông
Lăng minh quân vẫn dựng trong lòng người
Bao triều vua phế đi rồi
Người yêu nước chẳng mất ngôi bao giờ.
Chỉ đến thời này mới xuất hiện câu thơ rất minh triết: Người yêu nước
chẳng mất ngôi bao giờ. Câu thơ trên cũng chính là chữ Dụng trong thơ
Nguyễn Duy. Trong bộ ba Trời Đất Người, chữ Dụng nói lên vai trò Con
người, như câu thơ sau đây:
Bom Mỹ dội, nhà bà tôi bay mất
Đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền
Thánh với Phật, rủ nhau đi đâu hết
Bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn
…………………..(Đò Lèn)
Đời sống văn chương, nghệ thuật trước hết là đời sống tinh thần, đời
sống tâm hồn của mỗi nhà văn, nghệ sĩ. Hơn ai hết họ rất nhạy cảm trước
mỗi làn hơi thở của số phận. Tất cả những tác phẩm của một nhà văn đều
mang dấu ấn của mệnh. Nhưng cũng không phải tất cả tác phẩm ấy đều được
gọi là tác phẩm mệnh. Bởi, công bằng mà xem xét, có những tác phẩm chỉ
mang dấu ấn nhạt nhòa, hoặc có chữ Tượng mà không có chữ Thời, hoặc có
Thể mà không có Dụng, hoặc quá lạm dụng mà làm mờ mất cái bản thể. Và
như vậy, số lượng và tỷ lệ tác phẩm Mệnh của mỗi nhà văn tùy thuộc vào
từng người. Tác phẩm mệnh Thủy Địa Tỷ trong thơ Nguyễn Duy có một tỷ lệ
rất cao. Ngôi thứ trong chiếu làng văn là ở đấy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét