Học Dịch, phải biết
học những điều mà Dịch không nói ra. Trong một quẻ Dịch, những điều
không nói ra ấy thể hiện bằng tượng, biểu tượng, bằng vạch âm dương gọi
là hào, và bằng rất nhiều hình thức khác.
Khởi từ Phục Hy với Tiên thiên Bát quái,
Dịch chỉ có Tượng, không có Lời. Đến Chu Văn Vương và Chu Công Đán với
Hậu thiên Bát quái, thì Dịch mới có Lời Quẻ và Lời Hào (Quái từ, Hào từ), từ đây mới bắt đầu có Kinh Dịch.
“Tượng” thì không “Lời”; có “Lời” thì “Tượng” mất. Đọc Dịch phải là một
cuộc đối thoại giữa ta và Dịch, một cuộc đối thoại với tâm hồn hư vô, vô
niệm. Lời nói không sao mô tả được chỗ “không lời” của Dịch. Lời, để
“gợi ý”, nhưng có “biết quên lời” mới “đạt ý”. Trang Tử từng nói: Ta tìm
đâu người biết quên lời hầu cùng nhau đàm đạo! Dịch cũng bảo với ta như
thế: Không biết quên lời, mà cứ chấp theo ngôn từ, thì đọc Dịch không
bao giờ nhập được vào cái diệu kỳ của nó, lột được tinh thần của nó.
Dịch sử dụng 8 biểu tượng thiên nhiên là Trời, Nước, Núi, Sấm, Gió, Lửa,
Đất, Đầm (hồ) gắn với 8 quẻ Dịch đơn để giải thích ý nghĩa từng quẻ. Có
nghĩa là, mượn cái hữu hình là tượng thiên nhiên để làm sáng tỏ cái vô
hình là khái niệm quẻ. Cũng có thể nói cách khác là, người xưa quan sát
và suy ngẫm, chọn ra 8 hiện tượng thiên nhiên tiêu biểu nhất, đi từ
những hiện tượng vật chất đó mà suy ra thành 8 khái niệm trừu tượng để
khái quát vũ trụ và nhân gian, là 8 quẻ Dịch, ký hiệu bằng các vạch âm
dương liên kết với nhau. Như vậy, mỗi quẻ đơn gắn với một tượng thiên
nhiên, mỗi quẻ kép gắn với một cấu trúc tượng thiên nhiên. Ở đây, chỉ
xét Tượng của 8 quẻ đơn.
Quẻ Càn có tượng là Trời. Quẻ Khảm tượng là Nước. Quẻ Cấn tượng Núi. Quẻ
Chấn tượng Sấm. Quẻ Tốn tượng Gió (hoặc Cây). Quẻ Ly tượng Lửa. Quẻ
Khôn tượng Đất. Quẻ Đoài tượng Đầm. Mỗi tượng chứa đựng một nội dung
thông tin. Như Trời thì cương kiên, khởi xướng, lớn mạnh không ngừng
nghỉ... Đất thì nhu thuận, mềm mại, sinh nở, chứa tải muôn vật, bao
dung, bao bọc... Đem vận dụng vào Con người thì Trời như Cha, Đất như
Mẹ. Vận dụng vào cặp phạm trù đối lập, Trời là khí dương, Đất là khí
âm.
Tượng, không phải là một thứ “ngụ ngôn”, cũng không phải chỉ là một “dấu
hiệu”. “Ngụ ngôn” có thể nói lên cái “chất” của sự vật, chứ không nói
lên được cái “tinh” của sự vật, nói được cái “tinh” của sự vật, thì lại
không nói lên được cái “thần” của sự vật. Trong khi đó, “tượng”, ngoài
sự khêu gợi của dấu hiệu, lại còn ẩn tàng một yếu tố mà ngôn ngữ tỏ ra
hoàn toàn bất lực. Những “biểu tượng” mà tất cả huyền nghĩa
của nó được hoàn toàn bộc lộ bằng ngôn từ sẽ vì đó mất cả cái gọi là
huyền nghĩa của nó. Ngôn ngữ không bao giờ có thể giải thích được hoàn
toàn chân nghĩa của một biểu tượng. Có biết nhìn “Tượng” mà quên “Lời”,
mới mong thấy được chỗ “đại tượng”, tức là chỗ mà Lão Tử gọi là “vô
tượng chi tượng” (không tượng mà tượng): “Chấp đại tượng, an bình thái”
(Nắm vững được chỗ gọi là đại tượng, đi đâu lòng cũng bình đẳng an lạc).
Những điều trên tôi cảm nhận được từ lâu, nhưng phải đến năm nay, khi
tôi giảng bài Hà Lạc cho một lớp học, buộc phải nói ra bằng lời nhiều
chuyện về Tượng quẻ, về Hào âm, dương trong quẻ, tôi mới thật thấm thía.
Ví dụ, trong mệnh của một người bạn (cũng là mệnh của tôi) có tượng Núi
và Trời, cấu trúc tượng là Núi ở trên, Trời ở dưới, vì núi chứa được
trời nên sức chứa ấy là “chứa lớn”, nên tên quẻ là Sơn Thiên Đại Súc
(Núi Trời Chứa Lớn). Nhưng trong cái “chứa lớn” ấy còn tiềm ẩn một sự
“ngăn cản lớn”, quẻ là “chứa lớn”, nhưng các hào trong quẻ, có đến 4 hào
nói về “ngăn cản lớn”. Đời của chúng tôi chính là như thế. Chỉ mừng
thấy “chứa lớn”, mà không thấy “ngăn cản lớn”, là không thấy cái “thần”
của quẻ.
Điều ấy, Chu Văn Vương không nói ra trong lời quẻ. Chứa lớn: Chính đáng
thì lợi. Không phải ăn cơm nhà (tức được hưởng lộc của nguyên thủ), tốt;
vượt qua sông lớn (làm việc khó khăn, gian nguy để giúp nước) thì lợi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét