Trong 64 quẻ Dịch, có quẻ thứ 19 mang tên Địa Trạch Lâm.
Địa là Đất. Trạch là Đầm (hồ). Tượng quẻ là Đất ở phía trên, Đầm (hồ) ở
dưới, đầm hồ có đất bao bọc nên rộng lớn, tươi vui, ta hình dung như đầm
Sen ở TP. Hồ Chí Minh, hồ Gươm, hồ Tây ở Hà Nội, nên tên quẻ là Lâm.
Lâm là lớn, thịnh. Lâm còn có nghĩa là tới, đến, thành đạt. Người nào
trong mệnh được quẻ Lâm là tốt lắm, đi là đến, phấn đấu là thành đạt,
tiến tới. Có khi là cảm thông nhau mà tới (hào 1), có khi là cùng nhau
mà tới (hào 2), có khi là ngọt ngào mà tới (hào 3), có khi là lập chí mà
tới (hào 4), có khi là lập đức, lấy trí tuệ mà tới (hào 5), lại có khi
là, lấy lòng đôn hậu (chân thành, có trước có sau) mà tới (hào 6).
Trong số 32 nhà văn tôi miêu tả chân dung dưới ánh sáng Kinh Dịch (Khám phá một tia sáng văn hóa phương Đông – Nhà xuất bản Văn học 2009) chỉ có nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ có Hậu vận là Địa Trạch Lâm.
Chị sinh năm Bính Ngọ (1966), vốn có quẻ Tiền vận là Thiên Địa Bĩ, chủ
mệnh hào 6 có vận hạn là đánh đổ cái bĩ (cái bế tắc), nên văn chương của
Thu Huệ một thời là nhà văn của những thân phận bĩ. Sang Hậu vận bắt
đầu từ năm 2011, chị được giời cho quẻ Địa Trạch Lâm, chủ mệnh hào 3, có
vận hạn là “ngọt ngào mà tiến tới”. Thu Huệ vừa gửi tặng tôi cuốn sách
“Thành phố đi vắng” (Nhà xuất bản Trẻ 2012) gồm 16 truyện ngắn viết năm
Canh Dần (2010), là năm cuối cùng thời Bĩ, bắt sang năm Tân Mão (2011),
năm đầu tiên thời Lâm của tác giả.
Tôi bỗng có niềm vui đọc xem nhà văn hào 3 quẻ Lâm “ngọt ngào mà tới” như thế nào.
Trong 6 hào quẻ Lâm, riêng hào 3 có nghĩa vừa thuận vừa nghịch. Chữ Hán là cam lâm,
dịch sang tiếng Việt là “ngọt ngào mà tới”. Nhà lãnh đạo dân biết đem
điều hay lẽ phải thuyết phục dân, thì dân vui lòng theo, đó là cam lâm. Nhưng có khi mị dân, nịnh dân để dân theo, thì cũng là “ngọt ngào mà tới”, nhưng chỉ dẫn tới kết quả dân biết mình bị lừa.
Phan Bội Châu giảng hào này, nhấn mạnh mặt nghịch của nó. Chỉ một chữ
“ngọt ngào” mà bộc lộ hết tinh thần kẻ tiểu nhân. Xưa Lý Lâm Phủ làm
tướng đời Đường (Trung Quốc) là một đứa tiểu nhân làm hại vô số người
quân tử. Người đời nhạo bảo rằng: Miệng như mật ngọt mà bụng có gươm (khẩu mật phúc kiếm). Lại như Lô Khởi, hễ nó cười với ai, thì người ấy sẽ bị nó giết. Người ta bảo Lô Khởi: Trong miệng cười có lưỡi dao (tiếu trung hữu đao).
Nên chúng ta phòng bị tiểu nhân, phải phòng bị ở chốn ngon ngọt, tất
nhiên, ở trong ấy có cái đắng. Nghĩa là, trong bốn chữ “ngọt ngào mà
tới” vừa có lời khen, vừa cảnh giới.
“Thành phố đi vắng” của Nguyễn Thị Thu Huệ đúng là có một giọng ngọt
ngào. Đọc truyện nào cũng thấy một nụ cười của người viết, nhưng đó là
nụ cười cay đắng, cười ra nước mắt về những cảnh đời tréo ngoe diễn ra
giữa một thành phố đang ồn ào cuộc đổi mới.
Căn biệt thự đẹp như mơ của một quan chức cấp cao đang chứng kiến một
chiến sĩ bị tâm thần do bị một mảnh đạn vào đầu, anh phá phách ngôi biệt
thự của người anh mà trước khi ra trận anh đã nhờ người đó giúp đỡ
người mình yêu, sau này chính người yêu đó trở thành chị dâu mình. Anh
bị mảnh đạn thật, lên cơn điên thật, nhưng trong hành vi phá phách làm
cho ngôi biệt thự trở nên tan hoang kia, không biết đâu là điên, đâu là
không điên. Đó là cái ngọt ngào của người viết (Mảnh đạn).
Một căn nhà sang trọng khác trang trí toàn bằng những đồ cổ đắt tiền.
Bỗng ngôi nhà tràn ngập một giống bọ đen mà người ta nghi là do chuột
chết gây ra. Truy lùng chuột chết, làm vỡ những lọ cổ, bỗng phát hiện ra
bao nhiêu đồ cổ bị thay bằng đồ giả hết, và những tình thân yêu trong
nhà cũng là đồ giả hết. Sau những tan vỡ, người ta mới biết thêm rằng lũ
giặc bọ đen không phải từ chuột chết, mà từ gạo nếp cẩm mang về từng
bịch lớn (Không thể kết thúc).
Cứ thế mà cười. Cái thành phố càng giàu có mà càng thiếu văn hóa, thì đó
là cái thành phố đi vắng, một thành phố chết người. Đó là những gì mà
nhà văn Địa Trạch Lâm nói ra bằng nghệ thuật kể chuyện giản dị, văn thô
ráp mà đầy hình tượng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét