Việc xem tìm đất mai táng thời xưa, chỉ nhằm chôn cất thi hài người
thân mà không vì mục đích nào khác. Thế nhưng di thể an hay nguy, lại ứng với đời
sau. Bởi vậy, Tử Tôn là người cúng tế, không thể suy nhược; Hào Thế là chủ về
huyệt, không thể trống không. Hai điểm trên, là điều cốt yếu trong địa lý.
Nếu được Tử Tôn lâm nhật, nguyệt, vượng tướng, là cát lợi; Nếu gặp
không, phá, tán, tuyệt, là hung hại. Nếu lại được hào Thế thực mà không hư, vượng
mà không suy, mới có thể coi là tốt đẹp. Nếu lâm không mà không thực tán, ắt gặp
kiến mối, địa phong, cát, nước; gặp phá là thương tổn, gặp xung là bị đào bới;
gặp Quỷ là gặp mộ cổ.
Bởi vậy, Tốn là gió, Khảm là nước, Càn là đá, Đoài là cát, Ly là kiến mối,
Cổ là sâu bọ, Tỉnh là nước ngầm, Minh Di là hài cốt, tám quẻ trên đây, đều là
quẻ kỵ trong phong thuỷ, khi đó cho dù Thế và Tử Tôn đều vượng, cũng không thể
coi là cát. Mồ lấy lâu dài làm lợi, mả lấy yên tĩnh để thu tàng, nếu nhỏ thì có
thể di dời, thay đổi, kỵ gặp mộ cổ, không nên dùng.
Nếu hào Thế theo Quỷ nhập mộ, đó là thế đất rất xấu. Khi gặp những quẻ
kỵ, hào kỵ kể trên, dẫu được Thế thực Tử vượng, cũng không nên dùng.
Bởi vậy, chỗ bí mật trong việc xem về đất mai táng, là không gặp quẻ kỵ,
không gặp ba loại xung, Thế không nhập mộ, hào Thế thực mà hào Tử Tôn vượng,
như vậy mới là đất tận thiện tận mỹ. Nếu hào Tử Tôn vượng mà Quan, văn đắc địa,
chủ về hiển quý; Hào Tử Tôn vượng mà hào Tài đắc địa, chủ về giàu có; Hào Tử
Tôn vượng mà lâm đế vượng, chủ về nhiều con trai; Hào Tử Tôn vượng mà gặp trường
sinh, chủ về sống thọ. Hào Tử Tôn vượng mà gặp Bạch Hổ, Dương Nhận, sẽ sinh ra
kẻ võ biền; Hào Tử Tôn suy, phá, sẽ sinh ra người tàn tật; Hào Tử Tôn lâm
không, sẽ có người làm tăng ni, đạo sĩ; Hào Tử Tôn gặp tuyệt, chủ về tuyệt tự;
Hào Tử Tôn tán, chủ về sinh ly; Hào Tử Tôn hưu tù, lại kèm Cô Thần, Quả Tú, sẽ
sinh ra người mồ côi goá bụa; Hào Tử Tôn hưu tù mà gặp Hàm Trì, Huyền Vũ, chủ về
dâm ô; Hào Tử Tôn bị thương khắc bởi quẻ ngoại, hoặc quẻ Du hồn, chủ về chết ở
quê người; Hào Tử Tôn suy mà gặp Bạch Hổ, Dương Nhận, hoặc trong quẻ có hào Quỷ
Kim độc phát, chủ về bị sát hại; Nếu có hào Thuỷ, Hoả độc phát, chủ về thuỷ
tai, hoả hoạn, lại gặp Phù Ngục Huyền Vũ, chủ về trộm cướp, kiện tụng. Trên đây
là căn cứ vào sự vượng suy của Tử Tôn, để xác định cát hung.
Xem về hình thế của đất, nếu Thanh Long lâm không thì bên trái lõm, Bạch
Hổ phát động thì bên phải cao, Huyền Vũ suy hãm thì phía sau trống, Chu Tước bị
xung thì phía trước rối loạn. Hào gián vượng thì minh đường rộng rãi; Hào thượng
lâm không thì thuỷ khẩu khuyết thiếu; Câu Trần thực thì lai long ngay ngắn; Đằng
Xà bị xung thì đường đi nứt vỡ; Hào ứng khắc Thế thì án sơn cao; Hào ứng lâm
không thì ấn tâm nghiêng.
Dùng Lục thân, sáu hào, Thế, Ứng để phân biệt hình thế, căn cứ vào trạng
thái vượng tướng, suy nhược, không hư, phá tán, bại tuyệt, xung khắc, tổn hại,
hoà hợp; Sinh Thế là được giúp, khắc Thế là bị chèn ép, gặp Quỷ là gặp hài cốt.
Phép xưa cho rằng hào nhị là huyệt, tức chỉ huyệt trong đất; Đằng Xà là
huyệt, chỉ về vật trong huyệt, đó không phải là quan niệm phổ biến. Nên chuyên
dùng hào Thế chủ về huyệt, thì biến hoá vô cùng. Bởi vậy Quan Kim trì Thế, huyệt
gặp đá tảng; Quan Thuỷ trì Thế, huyệt gặp mạch nước; Quỷ Mộc trì Thế, huyệt gặp
gốc rễ; Quỷ Hoả trì Thế, huyệt gặp rắn, mối; Quan Thổ trì Thế, huyệt gặp mộ
khác. Những suy đoán ấy đều phải có tiền đề là hào Tử Tôn thất vị, nếu vượng
thì không thể suy đoán như vậy, tuy gặp cũng không nghiêm trọng. Đại để là dùng
lục thú, sáu hào để xem về địa hình, dùng hào Thế để xem về huyệt, dùng hào Tử
Tôn để xem về phúc đức.
Hào nhị là huyệt, chỉ có Dần, Thìn, Ngọ, Hợi, Tỵ, Sửu, Mão, mười hai
chi không đầy đủ. Ngày Kỷ thì Đằng Xà ắt ở hào sơ, nên không thể biến hoá. Bởi
vậy, phép tắc ở đây lấy hào Thế là huyệt, bởi vì có thể biến thông. Quỷ nằm tại
hào Thế là huyệt có bệnh, nếu Tử Tôn, nhật, nguyệt vượng tướng, thì không phải
câu nệ, vì có thể tu sửa bổ cứu được. Đại để là dùng lục thần và sáu hào để xem
về hình thế, dùng hào Thế và Tử Tôn để xem về tình hình huyệt mộ.
Xem thầy địa lý có tốt hay không, trước hết phải xem kiến thức, hào ứng
không nên không, phá; Sau đó, phải xem đến tăm địa, hào ứng không nên khắc Thế.
Hào Phụ Mẫu vượng mà hào ứng không hư, tuy kiến thức cao siêu nhưng nhãn lực
kém.
Xem có lấy được đất hay không, nếu có hào Phụ Mẫu sẽ được, không có hào
Phụ Mẫu sẽ không được, hào Thế không được lâm không, vì lâm không sẽ không tìm
được đất.
Xem đất ở phương nào, căn cứ vào các hành của mỗi phương, Hoả nam, Thuỷ
bắc... Xem đất ở khu vực nào, căn cứ vào các cung quẻ, Cấn là núi, Khôn là đồng
bằng, Tốn là vườn tược, Khảm là ao đầm. Xem bao giờ lấy được đất, căn cứ vào thời
điểm điền thực Phụ Mẫu, sinh hợp hào Thế.
Xem về tìm đất, kỵ gặp hào Thế thất hãm, hào Phụ không vong. Xem ở
phương nào, ở khu vực nào, lấy được lúc nào, đều phải chia ra để xem. Ví dụ
ngày Đinh Mùi tháng Dần năm Đinh Hợi xem về tìm đất mai táng cho cha mẹ được quẻ
Bĩ, hào Thế lâm không nên không được, đợi đến tháng 5 năm Tân Mão mới được, đến
tháng chín mai táng tại thôn Chu. Ứng vào năm Mão, vì năm Mão điền thực Thế,
Mùi là phía tây nam, tháng năm hợp Mùi nên được đất, kiến Tuất được chôn. Xem
được quẻ Tiệm, quẻ nội là quẻ Cấn, Mùi tại Khôn, nên sẽ được khu đất bằng phẳng
dưới chân núi.
Lại như vào ngày Quý Sửu tháng Tuất năm Quý Tỵ, xem có được đất hay
không, được quẻ Đại Súc, trong năm không có được, đến tháng giêng năm sau, được
đất ở núi Nam, do hào Phụ Mẫu thuộc quẻ cấn, tháng Dần điền thực hào Thế.
Xem về vị trí của huyệt, cần căn cứ vào hào Thế để suy đoán. Xem về sự
cát hung của huyệt, dùng hào Tử Tôn để suy đoán.
Thế tại hào sơ, hào nhị, huyệt ở phía dưới; Thế tại hào tam, hào tứ,
huyệt ở giữa; Thế tại hào ngũ, hào thượng, huyệt ở phía trên.
Xem về đất mai táng cho Lục thân, cần căn cứ vào Lục thân để chọn Dụng
thần, vượng tướng là cát, kỵ gặp Quỷ động. Nếu xem đất có kín không, vẫn căn cứ
vào hào Thế và hào Tử Tôn để suy đoán. Mai táng xuống đất, gửi quan tài vào miếu,
quàn linh cữu tại nhà, cùng vui buồn với linh hồn, phương pháp đều như nhau.
Người chết có được yên, người sống mới được vui vẻ, nên hào Quan Quỷ không nên
phát động, không phá, mà nên yên tĩnh, sinh hợp hào Thế, không nên khắc Thế, khắc
Thê thì sẽ gặp tai họa. Nếu giúp Quỷ hại thân, theo Quỷ nhập mộ, cùng chính
xung, hợp xung, biến xung, bất kể hào Quan Quỷ ra sao, cũng đều là không cát lợi.
Nếu là hợp táng, bồi táng, thì vấn đề cát, hung hay chọn Dụng thần đều
giống như trường hợp mai táng. Mua đất cũng như tính mưu, bán đất củng như xuất
hàng, nhờ người trông cũng như dùng người. Sửa ắt xem lợi hại, chọn ắt xem ngày
tháng, muốn được cát lợi, cần Thế vượng Tử hưng; Muốn được tránh dữ, cần Quan
khắc Quỷ động.
Mua đất mà gặp chính xung, hợp xung, hoặc trong quẻ không có hào Quan
Quỷ, Thế, Ứng lâm không, tức là không mua được. Nhờ người trông giữ cần nhìn
vào hào Ứng. Nếu sửa sang, thay đổi, mà gặp giúp Quỷ hại thân, theo Quỷ nhập mộ,
Quan khắc Thế, hào Quỷ động thì không nên tu sửa. Xem quẻ Khôn, Cấn, cát hung
tuỳ thời. Phép lấy hào Dụng, tuỳ việc mà thay đổi. Mồ mả là chuyện lớn trăm
nghìn năm, liên quan đến vận mệnh nam, nữ. Người xem cần chân thành, người đoán
cần thận trọng. Nếu chiếm đoạt huyệt của người khác, phá hoại cát địa của người
khác, địa lý được thì lòng trời giận dữ, quỷ thần chắc chắn sẽ không mách bảo.
Phong thuỷ kỵ quẻ Lục xung, nhưng xem được quẻ Cấn Vi Sơn trước mùa
xuân, xem được quẻ Khôn Vi Địa sau mùa thu, thì không thể nói chung chung là
hung được.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét