33. NGŨ HÀNH TRONG MỆNH TỰ TUYỆT
Ví như Quý Tỵ, Ất Hợi, Canh Thân, Nhâm Dần, Đinh Tỵ đều là
Ngũ hành tự tuyệt. Quy luật vận hành theo tự nhiên thì không thể tuyệt. Nếu can
chi trong mệnh vừa hay gặp Tỵ tuyệt thì sẽ sống lại. Trong mệnh gặp phải, là
vui là buồn vẫn không thể xác định. Ví như Quý Tỵ tuyệt Thủy, nếu có được Quý
Dậu vượng Kim trợ giúp thì sẽ là "tuyệt Thủy gặp sinh", vô cùng tốt
lành.
34. NGUYỆT LỆNH PHÂN
BIỆT TRONG ĐỤC
Nếu trong mệnh có tượng tử, tuyệt, sinh, vượng, khố, mộ thì
không thể dựa vào đó để phán đoán là hung, còn cần xem Nguyệt lệnh để phân biệt
thanh, trọc. Thanh (trong) là có chế phục, chẳng hạn Thủy sợ gặp Thổ, gặp Thổ
thì đục, song nếu không dùng Thổ để xây dựng đê điều thì Thủy sẽ chảy mãi không
dừng. Đã dừng, thì Thủy sẽ Dần dần trở nên trong. Trọc (đục) là khi không có
chế phục, nếu Thủy nhiều mà không có Thổ thì sẽ tràn lan, không quy tụ, mà Thủy
đạt tới cực điểm thì sẽ sinh Mộc, đây chính là "cực tất biến, biến tất
thông". Ngũ hành thích sự thay đổi, không thích ở mãi một trạng thái, Ngũ
hành chú trọng đặc tính ẩn giấu bên trong, mà không coi trọng sự vật lộ ra
ngoài. Nếu tử tuyệt được cứu thì gọi là "hoàn hồn" thông thường coi
là quý. Nếu sinh vượng bị khắc thì gọi là "tán khí", cho thấy người
này phúc mỏng. Nếu hai bên tương sinh, thuận sinh thì sẽ có ích cho bản thân,
nghịch sinh thì sẽ cướp đoạt khí của bản thân. Nếu hai bên tương khắc, thuận
khắc thì thế mạnh, mà nghịch khắc thì bị tổn thương.
35. NGŨ HÀNH TRONG
MỆNH KỴ YẾU KHẮC MẠNH
Trong "Kinh" nói: lấy nhỏ lấn át lớn thì sẽ tự
chuốc họa về mình, lấy yếu thắng mạnh thì sẽ tự gây ra tai ương. Ví như một Thủy
khắc ba Hỏa thì chính là lấy yếu thắng mạnh. Lấy âm thắng dương, tuy có họa
nhưng không rõ ràng, lấy dương thắng âm, tuy có hại nhưng không nghiêm trọng.
Hai dương cản trở nhau thì sẽ gặp họa khôn lường. Hai âm tình địch nhau thì
không được yên. Ví như Ất Tỵ Hỏa khắc Nhâm Thân Kim, là lấy âm thắng dương,
Nhâm Thân Kim khắc Kỷ Tỵ Mộc, là lấy dương thắng âm. Âm dương hữu tình, bởi vậy
không gây hại lớn. Hay như, Đinh Mão gặp Quý Dậu là hai âm tình địch nhau, Mậu
Ngọ gặp Giáp Tý là hai dương cự tuyệt nhau. Dương là cương, âm là nhu, cùng
tính thì kháng cự nhau, chắc chắn phải đánh thắng mới chịu thôi, nên là họa
hại. Trong "Thái Ất" nói: Trời đất biến chuyển, âm dương tiêu trưởng
đều là vì âm gọi dương, dương gọi âm, mới khiến trời đất hợp với chính đạo, khí
Ngũ hành dung hòa. Nếu dương chỉ theo dương, âm chỉ theo âm thì âm dương không
cân bằng, động tĩnh rối loạn, nên phúc họa đều có. Nếu âm dương không cân bằng
thì tạo hoá không thành Ngũ hành. Ví như Hỏa nhiều Kim ít, khiến Kim tụ hay tán
đều không thể thành hình. Hỏa ít Kim nhiều thì Kim không dễ bị nung chảy, sẽ
gây họa dập tắt lửa. Tương tự suy ra các trường hợp khác
36. MỆNH CẦN ĐỊNH NGŨ
HÀNH, THỂ DIỆN VÀ CỤC THẾ
Phần này chủ yếu nói rằng, khi xem mệnh thì trước hết cần
xác định ra Ngũ hành, thể diện và cục thế, sau đó xem xét hợp kỵ, tốt xấu và
vượng tướng hưu tù. Chẳng hạn, người mệnh Kim có Canh Tân hoặc Thân Dậu là thể
diện, có tam hợp Tỵ Dậu Sửu là cục thế, hợp chế phục Hỏa, có Thổ trợ giúp, kỵ
Kim Thủy lạnh. Sinh vào mùa thu hoặc các tháng 3, 6, 9 và 12 là vượng tướng,
còn sinh vào mùa xuân, mùa hè là hưu tù. Tương tự suy ra các trường hợp khác.
37. NGŨ HÀNH, THỂ
DIỆN VÀ CỤC THẾ CỦA NGƯỜI MỆNH KIM
Nếu người mệnh Kim gặp Canh Thân, Tân Dậu là Ngũ Ly sát, nếu
sinh vào mùa thu gặp Thủy thì có thể giải được độc hại của Kim, biến thành Kim
bạch Thủy thanh. Nếu trong mệnh gặp Hỏa thì chế phục tính cương của Kim, có thể
luyện thành vũ khí sắc nhọn. Trong Tứ trụ đã không có Hỏa, lại cũng chẳng có Thủy
là Kim ngoan cố, cho thấy người này từ trẻ đã chìm đắm trong tửu sắc, cuối cùng
chết vì bệnh tật. Nếu ngày, giờ của mệnh này là Mậu Dần thì chính là nơi cương
gặp sinh, mệnh chủ sẽ được hưởng cả phúc lẫn thọ.
38. NGŨ HÀNH, THỂ
DIỆN VÀ CỤC THẾ CỦA NGƯỜI MỆNH MỘC
Người mệnh Mộc nếu gặp Thổ thì gốc rễ sẽ được bao bọc, che
chắn và nuôi dưỡng; nếu gặp Thủy thì cành lá sẽ mọc tốt tươi; nếu gặp Kim thì
lại bị chặt đứt, có thể trở thành nguyên liệu. Người mệnh Mộc nếu gặp Dần Mão,
lại sinh vào mùa xuân là tốt nhất. Nếu tam hợp hội tụ, cục diện toàn Mộc thì
không cần sinh vào mùa xuân cũng vẫn sẽ nhân từ và sóng thọ. Mộc bị Kim chế
phục, Kim khí bị Hỏa chế phục chính là cương nhu chế phục lẫn nhau. Nếu Hỏa quá
nhiều thì Mộc sẽ bị thiêu trụi, Kim quá nhiều thì Mộc sẽ bị tổn thương, Thổ hư
rỗng thì không thể chăm bón gốc rễ của Mộc, Thủy tràn lan thì Mộc ngập úng,
không thể mọc tốt tươi, tốt nhất là mọi thứ đều cần trung hòa.
39. NGŨ HÀNH, THỂ
DIỆN VÀ CỤC THẾ CỦA NGƯỜI MỆNH THỦY
Người mệnh Thủy lấy Hợi Tý làm cuội nguồn, lấy Dần Mão Thìn
Tỵ làm nơi tàng ẩn. Can của nó bắt nguồn từ phương bắc, dù trải qua bao khúc
quanh uốn lượn cuối cùng vẫn thường chảy về hướng đông, bởi vậy người mệnh Thủy
hợp với hướng đông, Thủy chảy về hướng đông sẽ bình lặng, yên ả. Thủy cần Thổ
tới xây dựng đê điều, nếu người mệnh Thủy gặp Hợi Tý, nhiều Thổ sẽ gặp may mắn.
Thủy ở hướng đông, gặp Thổ cũng là tượng cát, song không nên quá nhiều Thổ. Nếu
lại gặp thêm quý nhân, tài lộc là tướng quý. Nếu ngày giờ gặp Canh Thân, Tân
Dậu, do Thủy kỵ chảy về phía tây, nên nếu gặp phải thì e rằng tuổi thọ không
cao. Người mệnh Thủy sinh vào mùa thu hoặc đông, sinh vượng mà trong trẻo, Nhâm
Quý gặp Hợi Tý cho thấy người nàỵ có tài văn học. Nếu nạp âm lại là Thủy thì Thủy
quá nhiều, nếu trong trụ không có Thổ tới làm đê thì sẽ không có con nối dõi.
Chỉ có theo học nghệ thuật hoặc xuất gia đi tu thì mới cát, nếu lại xuất hiện
Cách giác trùng phùng thì chắc chắn sẽ đại diện cho hình khắc. Thủy vào mùa
xuân sẽ cạn khô, vào mùa hè sẽ tràn lan, người mệnh Thủy nếu trong trụ không có
Thủy trợ giúp thì sẽ không quý.
40. NGŨ HÀNH, THỂ
DIỆN VÀ CỤC THẾ CỦA NGƯỜI MỆNH HỎA
Người mệnh Hỏa bản thân là Dần Mão, nếu sinh vào mùa xuân
thì Mộc tú Hỏa minh, chủ cuộc sống cả đời vinh hoa phú quý. Nếu sinh vào mùa hè
thì lại quá nóng, nếu trong trụ không có Thủy thì chắc chắn sẽ chết yểu, nếu có
Thủy thì lại sớm gặp quý. Nếu sinh vào mùa thu là Hỏa tử Kim thành, ánh sáng
tàng ẩn chiếu ở bên trong, ngày giờ chỉ cần gặp chút khí vượng thì cũng cát. Do
Thủy và Hỏa không kỵ tử tuyệt nên chỉ cần sống thanh đạm sẽ có phúc khí. Nếu
sinh vào mùa đông, trong trụ lại không có Hỏa trợ giúp thì lại là tượng làm tan
sương tuyết, sưởi ấm núi sông, cổ nhân từng nói, mùa đông đáng yêu, mùa hè đáng
sợ, chính là đạo lý này.
41. NGŨ HÀNH, THỂ
DIỆN VÀ CỤC THẾ CỦA NGƯỜI MỆNH THỔ
Người mệnh Thổ nếu gặp tứ quý toàn Thổ thì sẽ là thượng quý.
Nếu can chi nạp âm toàn Thổ, trong Tứ trụ lại có chữ "Dần" thì gọi là
Càn sơn, đây cũng là mệnh quý. Thổ sâu dày có thể chứa đựng vạn vật, là nơi vạn
vật sinh sôi và phát triển, Kim, Mộc, Thủy, Hỏa đều cần Thổ, bởi vậy nói cả 4
hành này đều cần dựa vào Thổ.
42. NGŨ HÀNH TRONG
MỆNH QUY VỀ TRUNG HÒA
Phần này nhấn mạnh rằng Ngũ hành trong mệnh tốt nhất là quy về
trung hòa, như vậy mới có thể được hưởng phúc trạch. Vận dụng Ngũ hành nhiều mà
linh hoạt, hơn nữa hòa hợp trong mệnh cục là tốt nhất, nhiều thì thừa, ít thì
thiếu, dù là khí hay số nếu thừa hay thiếu thì đều gây ra tai hoạ. Nhiều thì
dìm xuống, mà ít thì nâng lên, cần làm cho trung hòa thì mới có thể thành phúc
trạch. Thành công nên lui về ở ẩn, mà tương lai quý ở sự hưng thịnh. Ngũ hành
tụ ở chỗ vượng, gọi là "thành công", Ngũ hành ở chỗ vượng, hơn nữa
được nghỉ ngơi thì gọi là "lui về ở ẩn". Ngũ hành ở chỗ quan đới thai
dưỡng, khí của nó không đủ hay không dồi dào thì gọi là "tương lai",
bởi vậy nên có mẹ con tương sinh để tăng thêm khí, như vậy sẽ có được sự hưng
thịnh và phấn chấn. Nếu thời gian xuất hiện Mộc không hợp, suy thì cành rời
khỏi cây, tử thì khô héo. Kim quá vượng, thì sẽ động mà gây ra tai hoạ. Hỏa quá
vượng thì tốt nhất nên dập tắt Hỏa, không dập tắt được Hỏa thì sẽ gây ra hoạ tự
thiêu; Thủy quá tràn lan thì tốt nhất nên làm Thủy dừng lại, nếu không sẽ gặp
hoạ chết chìm.
43. QUAN HỆ NGŨ HÀNH
SINH KHẮC CỦA MỆNH HỎA VÀ MỆNH THỦY
Hành Hỏa trong Ngũ hành ở phương nam thỉ sẽ hoá thành sức
nóng, nếu quá vượng thì thế Hỏa vô cùng mãnh liệt, sẽ thiêu trụi mọi thứ, tới
vị trí Dậu, Hợi, do ở nơi âm nên sẽ thu lại sức mạnh, mà khiến vạn vật trở nên
ấm áp. Thủy tới phương bắc sẽ hoá thành khí lạnh, nếu quá vượng thì sẽ giết
chết vạn vật, tới vị trí Mão, Tỵ, do ở vào nơi dương, có thể tiêu tan giá lạnh,
tiếp đến có thể khiến vạn vật sinh sôi. Ngoài ra còn có sinh mà không sinh,
vượng mà không vượng, là mệnh cục “hung do cát trước”; còn có tử mà không tử,
tuyệt mà không tuyệt, là mệnh cục “cát do hung trước”. Ví như Thủy gặp Mậu Thân
Thổ chính là mệnh sinh mà không sinh, gặp Canh Tý Thổ chính là mệnh vượng mà
không vượng, gặp mệnh này thì đa phần có rất nhiều thành tựu, song cuối cùng
vẫn thất bại, là do quá vui mừng trước thành công nên lại gặp hoạ. Thủy gặp Quý
Mão Kim là mệnh tử mà không tử; gặp Tân Tỵ Kim là mệnh tuyệt mà không tuyệt,
đây chính là Ngũ hành khí tận được tái sinh nhờ đức của bố mẹ, gặp được vận này
thì trong nguy có phúc, từ nghèo khổ, bần hàn trở nên giàu có, từ uốn cong trở
nên duỗi thẳng. Nếu trong mệnh sinh vượng quá nhiều thì trong phúc có hoạ, tử
tuyệt quá nhiều thì phúc không thể tới. Nếu tử tuyệt gặp sinh thì dù có xảy ra
tai nạn vẫn tránh được, mệnh Hỏa có thể tránh đầu tiên, tiếp đến là mệnh Thủy
và mệnh Thổ, Hoạ ở vào nơi tuyệt mà được Thổ thì gọi là “duệ” Thổ ở vào nơi
tuyệt mà được Kim, là tử mà Không Vong, gọi là "vong hồn"; Kim tuyệt
được Thủy thì gọi là "kế thể"; Thủy gặp tuyệt mà được Mộc thì tinh thần
hưng phấn trở lại; Nếu Mộc gặp nơi tuyệt mà được Hỏa, Hỏa bốc cao thì Mộc sẽ
hoá thành tro tàn, cuốn bay theo gió, bởi vậy Mộc gặp nơi tuyệt mà có Hỏa là
mệnh hung. Mộc đại diện cho gan trong ngũ tạng của con người, đại diện cho mật
trong lục phủ của con người, thấy Mộc tử là hung. Trong "Kinh" nói:
mệnh Thổ gặp Hỏa thì dần dần phát triển, có lợi cho sinh mệnh; mệnh Thủy được
Kim trợ giúp thì sẽ hưởng thọ cao; trong mệnh Kim nếu Kim quá nhiều thì cần Hỏa
trợ giúp mới có thể thành danh; trong mệnh quá nhiều Mộc thì cần Kim trợ giúp,
có thể khiến Mộc uốn cong hay thẳng tắp tuỳ ý. Thủy chảy không ngừng thì cần
Thổ tới ngăn chặn. Hỏa quá nhiều, bốc cháy ngùn ngụt thì chỉ có Thủy mới giúp
được. Dùng Ngũ hành đúng đắn thì dù có tương khắc vẫn được phúc khí, nếu dùng
sai thì dù có tương sinh cũng sẽ gặp tai hoạ.
44. NGŨ HÀNH TRONG
MỆNH NHIỀU SẼ GÂY HẠI LẪN NHAU
Phần này chủ yếu nói về Ngũ hành trong mệnh cục quá nhiều thì
sẽ cản trở, tàn phá lẫn nhau. Chẳng hạn, Lộc vốn đại diện cho tước vị và bổng lộc,
song trong mệnh nhiều thì sẽ khó khăn cả đời; Mã vốn đại diện cho hành động
nhanh nhẹn, mau lẹ, song trong mệnh nhiều Mã thì lại bệnh tật triền miên, khó
khăn chồng chất. Trong mệnh nhiều Ấn thì lại chủ cô độc, nhiều khố thì lại chủ
trở ngại. Sinh vượng nhiều thì không có chốn trở về, tử tuyệt nhiều thì không
có lúc nào sôi nổi. Ngũ hành trong mệnh cục cũng không thể quá thuần tuý, quá
thương tổn lẫn nhau. Nếu là quý nhân Mà nhiều sẽ được thăng chức; còn người
thường Mã nhiều thì cả đời vất vả, lận đận. Ngũ hành gặp phá thì cần xuất hiện
thương hoạ, Ngũ hành gặp Không thì cần Không tận. Thứ mà mệnh hợp thì không thể
phá hoại, thứ mà mệnh kỵ thì không thể ở nơi vượng; kỵ trước hợp sau trong cục
mệnh là phúc khí, hợp trước kỵ sau là tai hoạ; Ngũ hành hợp nhiều không phát là
tốt, Học đường nhiều thì lại không có thành tích gì; Quý nhân nhiều lại tự ti
nhu nhược mà mất đi ý chí, Lộc Mã quá rõ lại không thể suy đoán là quý nhân;
Quý nhân trong ngoài đầy đủ thì lại không thể suy luận là thường dân; Ngũ hành
Tứ trụ đều là dương là người khẩu xà tâm Phật; Ngũ hành Tứ trụ đều là âm là
người tâm địa nham hiểm. Trong mệnh có củng thì cần củng Mã, củng Lộc, củng
Quý, củng phúc thần, còn không nên củng hình, cùng họa, củng Tuế, củng giờ. Âm
dương Ngũ hành trong mệnh cục quý ở chỗ cân bằng và hòa hợp, mang bệnh thương
thì cần có khắc chế.
45. TAM KỲ VÀ TAM HỢP
TRONG TỨ TRỤ
Nếu Bính Tân, Nhâm Quý trong mệnh cục gặp Mậu Tuất là Mậu
Thổ nắm quyền, mang hoạ sát thương và gặp trắc trở. Nếu Tứ trụ là Nhâm Tý, Bính
Ngọ, Bính Ngọ, Nhâm Tý là Thủy Mộc hoạt bát, âm dương thuần tuý. Dù không có sự
trợ giúp khác, cũng vẫn là người phi thường; nếu lại thêm sau đó lộ khí thì liều
lĩnh không sợ gì, đại đức, khoan dung độ lượng, là bậc đại trượng phụ. Mão, Dậu
là nơi mặt trời mọc và lặn; Tý, Ngọ là cung phân chia âm dương, nếu trong mệnh
gặp được sẽ khiến con người không vững vàng, chắc chắn, Tuế vận gặp phải cũng
tương tự như vậy. Tỵ, Hợi là hai cực âm dương, trời đất xoay chuyển, Dần, Thân
là phương tam đình, trao đổi qua lại, nếu trong mệnh gặp được thì đa phần không
thể ổn định. Sửu, Mùi chậm chạp, Thìn, Tuất nhanh chóng, trong mệnh gặp được
thì sẽ khiến con người cố chấp, bảo thủ. Thìn, Tuất có khí mới có thể lập nên
đại nghiệp. Người Bính Tý nếu Tứ trụ có Nhâm Dần là Nhâm nhập Bính gia, sẽ bị
phá không tốt. Người Canh Tý nếu Tứ trụ gặp Canh Ngọ, là Ngũ Quỷ lâm môn; người
Mậu Dần nếu Tứ trụ gặp Giáp Dần, Giáp khắc Mậu, Mậu Dần khắc Giáp Dần, là can
chi nạp âm trên dưới không hòa hợp, trừ khi có phúc thần khác tới giúp thì mới
có thể hưởng phúc. Người Quý Dậu nếu Tứ trụ gặp Mậu Dần, trong đó Mậu Thổ khắc
Quý Thủy, lại thêm Kim khí bay về nơi tuyệt, kiếp sát nguyên thần ở bên trong
thì trừ phi trong nguyệt lệnh có khí tú thì mới có ích, tuy nhiên về lâu về dài
vẫn không tốt. Canh Ngọ, Đinh Dậu cùng vượng cùng phá, thuộc về "trong
vượng có phá", không thể suy đoán toàn bộ là phúc. Người Kỳ Mùi, Tân Dậu
tuy là Thực thần, song trở về nơi tử, cuối cùng vẫn không tốt. Người Ất Sửu, Ất
Mùi, Canh Thìn, Canh Tuất gặp Mậu Dần thì cát, vận thế cũng sẽ cát. Trong
"Kinh" nói: "Nếu được Canh Kim trợ giúp Mậu Dần, mong tuyệt
không tuyệt thành có phúc". Ví như người Ất Mão gặp Mậu Dần hoặc người Mậu
Dần gặp Ất Mão đều là mệnh rất tốt.
46. MỆNH CÓ TAM KỲ VÀ
TAM HỢP LÀ MỆNH CỰC TỐT
“Đan dương thư”có nói: "Trong Tam Kỳ còn có hư thanh;
trong tử tuyệt còn có sinh vượng". Có nghĩa là nếu tam hợp, Tam Kỳ không
tương hợp với tháng thì không quý, chẳng hạn như Giáp, Mậu, Canh gặp Tý, Ngọ
mới quý; Ất, Bính Đinh gặp Dần, Mão mới quý.Trong "Thiên nguyên biến hoá thư"
nói: "Ất, Bính, Đinh hợp Dậu, Hợi thì xem nạp âm có liên quan với nhau hay
không", còn nói: "Phàm là Tam Kỳ, tam hợp mang khí tú trong nguyệt
lệnh thì có thể nhập cách cục quý, song cũng không tránh khỏi mệnh là con vợ bé
hoặc là con nuôi, ở rể". Hơn nữa, phàm là trong mệnh gặp tam hợp,Tam Kỳ,
mà trong năm lại không gặp, sinh vào tứ mạnh, lại gặp tháng, ngày giờ tứ trọng,
tứ quý thì tứ trọng, tứ quý suy luận giống nhau; ngày, tháng mang thai hoán đổi
cho nhau, mệnh này lại không có can hợp hoặc lục hợp, đều được gọi là
"điệu Thái Tuế", mệnh này đa phán chủ phải tự lập, không được nhờ vào
tổ tiên, không có ai giúp đỡ. Tuy nhiên lại thích hợp chuyển chỗ ở, lập thân
nhờ vào bạn đời, mệnh quý lại được dựa dẫm nhiều mà thăng quan tiến chức, có
chí tiến thủ. Hễ là người trong Tứ trụ có Tam Kỳ, tam hợp thì dù bản thân không
phải là con nuôi hay con vợ lẽ thì sau này con cháu chắc chắn sẽ là con nuôi,
con vợ lẽ hoặc con theo mẹ. "Cổ thư” nói: "Tam hợp và Tam Kỳ đẹp đẽ,
sáng sủa, phong phú và dồi dào, không là con nuôi cũng là con theo mẹ"
cũng chính là ý này.
47. TIỀN NGŨ THẦN
TRONG MỆNH TƯỢNG TRƯNG CHO TRẠCH XÁ
Phần này đề cập tới Tiền ngũ thần trong mệnh lý tượng trưng
cho trạch xá, nếu có khí hoặc có cát thần tới thì cho thấy gia trạch rất tốt,
sẽ là gia đình lớn, quyền thế danh giá, con cháu vinh hoa phú quý, địa vị hiển
hách. Nếu là người Giáp Thân, trạch xá tại Sửu, sinh tháng 12, được Thiên Ất
quý thần tới nhà là cát. Nếu nơi ở không có khí hoặc có hung thần tới thì cho
thấy gia trạch bị tổn hao, phá hoại, không hoàn chình, người này sẽ không giữ
được gia sản của tổ tiên để lại. Nếu là người Canh Ngọ, trạch xá tại Hợi, tuần
Giáp Tý, Hợi chính là ở nơi Không Vong, lại gặp Kiếp sát tới nhà là hung. Các
trường hợp khác suy luận tương tự như vậy. Chi đứng sau mệnh một vị trí là phá
trạch sát, nếu ở tại phá trạch sát thì cho thấy người này không được kế thừa
sản nghiệp của tổ tiên hoặc phải chết nơi đất khách quê người. Còn cần xem
trạch nạp âm, nếu tương sinh với nạp âm của mệnh chủ là cát, tương khắc với nạp
âm của mệnh chủ có thể được gia trạch tốt; nạp âm của mệnh chủ khắc với nạp âm
của trạch xá thì phá tài. Nếu Giáp Tý Kim lấy Kỷ Tỵ Mộc làm trạch xá, sinh vào
tháng 2, thuộc trạch vượng, tuy là trạch tốt, song thân Kim lại khắc với trạch
Mộc, nên về sau chắc chắn nhà cửa sẽ tan nát. Nếu Mậu Ngọ Hỏa lấy Quý Hợi Thủy
làm trạch, sinh vào tháng 9, thuộc về trạch quan đới; sinh vào tháng 10, thuộc
về trạch kiến; sinh vào tháng 11, thuộc về trạch vượng, lại thêm nạp âm của
trạch khắc với nạp âm của mệnh chủ thì chắc chắn sẽ có gia trạch tốt. Nếu nạp
âm của trạch sinh trong khắc vượng, có Quan tinh thì cát, không có Quan tinh
thì hung. Mọi mệnh lộc tuy có hưu có vượng, song quan trọng vẫn là quan sát xem
tình trạng của trạch ra sao để phán đoán cát hung. Thẩm Nghệ nói: "Trạch
kỵ phạm phá". Nếu người Giáp Tý lấy Kỷ Tỵ làm trạch, nếu gặp Hợi thì trạch
sẽ bị phá hoại, mệnh sẽ mỏng. Nếu gặp năm xung Thái Tuế thì cũng phạm phá, phải
ở phương vị trưởng lão mới có thể đoán định. Người Bính Tý lấy Tân Tỵ Kim làm trạch,
nếu gặp lưu niên Ất Hợi thì phạm phá, dù là mệnh tốt cũng cần chấn hưng, di
động mới có thể ứng nghiệm.
48. HẬU NGŨ THẦN
TRONG MỆNH TƯỢNG TRƯNG CHO ĐIỀN VIÊN
Hậu ngũ thần trong mệnh cục tượng trưng cho điền viên, nếu
mệnh chủ ở vào nơi có khí, lại có phúc thần tới thì cho thấy ruộng vườn rộng
mênh mông, nhà kho đầy ắp. Nếu là người Giáp Tý, điền viên tại Mùi, sinh vào
tháng 6 thì Thổ nhận vượng khí, lại gặp Thiên Ất tới nhà là cát. Nếu ở nơi không
có khí, lại có hung thần tới nhà thì cho thấy người này ruộng vườn ít ỏi, nhà
kho trống rỗng. Nếu là người Mậu Tý, điền viên tại Quý Mùi, sinh vào tháng 6,
tuần Giáp Thân, vừa hay Mùi ở vào nơi Không Vong, các trường hợp khác đều suy
luận tương tự.
49. THẦN SÁT TRONG
MỆNH
"Quỷ Cốc di văn" có nói: Mã vô hại (tức là mã không
bị hình phá làm tổn hại), Lộc vô Quỷ (tức là lộc không bị Quỷ khắc), Thực vô
Vong (tức là Thực thần không gặp phải sát Không Vong), chi hợp vô Nguyên (tức
là chi hợp không gặp sát Nguyên thần), can hợp vô ách (tức là can hợp không
phạm vào sáu ách), vượng vô Táng (tức là thân vượng không thể gặp Táng môn
sát), suy vô Điếu (tức là thân suy yếu không gặp Điếu khách sát), thê vô Nhẫn
(tức là cung vợ không gặp Dương Nhẫn sát),Tài vô Phi (tức là Tài tinh không gặp
Phi Liêm sát), mạnh vô Cô (tức là sinh vào tháng mạnh - tháng đầu tiên của mỗi
mùa, không phạm vào Cô Thần), quý vô Quả (tức là sinh vào tháng quý - tháng
cuối của mỗi mùa, không phạm vào Quả Tú). Thân mạnh thì cần có Quỷ, Lộc nhiều
thì cần có Quan. Cung chồng cần tươi sáng, thanh khiết không hỗn tạp thì cung
vợ tất vượng. Cát thần cần hiện rõ, hung thần cần ẩn kín. Can chi không hòa hợp
mà tắc không thông thì vợ chồng thất thời mà sinh hoạ hoạn. Tứ trụ chủ bản, Lộc
Mã vãng lai, cần phân biệt là kiến hay là phá, có Thiên Ất Quý Nhân trợ giúp
hay không, có tương xung với Đức hay không, tiếp đến phân biệt sang hèn. Có gốc
mà không có mầm thì tuy thiếu thốn tiền bạc, song vẫn được ăn ngon mặc đẹp; bản
thân khí tuyệt mà hoa sinh sôi, thì dù con cháu có thể thành danh, song cũng vẫn
sống trong cảnh thiếu thốn, ăn uống đạm bạc Nếu được quý thần đương vị, các sát
tàng phục, tam nguyên Thiên, Địa, Vận đều là vượng tướng thì không thể suy đoán
chỉ theo thần sát. Dùng sát trong mệnh dựa vào Ngũ hành là chính, nếu Ngũ hành
đắc địa, thì dù trong mệnh cục không hiện rõ sát quý thì cũng là mệnh quý, tuy
có ác sát, song không gây hại gì; nếu Ngũ hành không đắc địa thì dù trong mệnh
có cát sát trợ giúp, cũng sẽ không phát đạt dài lâu, sẽ chỉ giống như đoá hoa
nở trong ngày đông lạnh giá mà thôi.
50. GIÀU NGHÈO CÓ SỐ
Nạp âm là quy luật vận hành của đất trời. Dịch Mã, Học đường
trong mệnh lý cần ở vào chỗ trường sinh; Tài năng, quan chức cần ở vào nơi
vượng tướng; văn chương, phú quý cần ở vào chỗ Ấn khố, nếu chúng ở vào nơi suy
bại thì phúc khí trong mệnh sẽ giảm đi 1/3; nếu ở vào nơi tử tuyệt thì giảm đi
một nửa. Quan trọng nhất là kỵ có sát Không Vong tới xung khắc và hình hại
chiếm đoạt Thực thần. Bởi vậy nói, cùng nguồn gốc có thể tương thành thì trời
đất giao hòa, gốc rễ và bản thân đều tráng kiện; cùng loại tương thương thì chi
thần tán khí, không thể tái hợp. Quản Lộ nói: "Nếu Ngũ hành đều vượng, tuy
phạm xung song khí vẫn toàn vẹn; nếu Ngũ hành tương khắc, tuy tương hợp song
khí lại phân tán", cũng chính là đạo lý này.
Có người hỏi rằng: "Đời người có khởi đầu, có kết thúc,
có công danh phú quý. Vậy thì vì sao mỗi người lại có số phận khác nhau? Có
người đột nhiên phát đạt, bỗng dưng trở nên giàu có; có người khởi đầu và kết
thúc đều xấu, mà ở giữa lại rất tốt; có người nửa đời người đầu thì gặp khó
khăn gian khổ, mà nửa đời người sau lại rất thành công". Xin trả lời rằng:
"Tất cả đều là vì mệnh cục. Người phú quý cả đời là do thân trong Tứ trụ
chủ rất vượng, luôn dùng cát thần, hoặc Quan tinh, Ấn tinh, Tài, Thực đều mang
Lộc đắc lệnh, không thiên lệch không khuất lấp, cũng không có hình xung khắc
hại, hễ ra khỏi cửa thì đều gặp may mắn, bởi vậy có thể thành tài, làm nên kỳ
tích, có thể kế tục cơ nghiệp của người đi trước, xây dựng nên công danh cho
bản thân, hơn nữa sẽ không gây ra chuyện thị phi, không bị làm tổn hại. Người
có thể duy trì phú quý cả đời là vì có mệnh sinh vượng, thứ gì cần cũng có. Có
người đột nhiên phát đạt, trở nên giàu có, là vì dùng được mọi quý thần trong
Tứ trụ, nhận được vượng khí, hơn nữa lại hợp cách, song nhật chủ vô lực, không
thể gánh vác nổi phúc cho người này, bởi vậy cả đời nghèo khổ, rơi vào khó
khăn, đột nhiên gặp được mệnh tốt thì can ngày trở nên có sức mạnh, lúc này
nguyên mệnh dụng thần mới là thứ mà người này cần, người này sẽ dựa vào đó để
trỗi dậy, phút chốc đã trở nên phú quý. Đây là thiên khí hài hòa, suy khí cũng
gặp được chốn vượng, bởi vậy gặp cát mà phát, trước sau khác biệt rất xa. Cũng
có nhật chủ cường vượng, Ngũ hành thần sát thuần khiết không hỗn tạp, song vốn
không có chế phục nên khó mà phú quý. Chỉ khi có vận tới chế phục, Sát thần hoá
quyền bính thì mới công thành danh toại, tài giỏi xuất chúng. Còn có chế thần
sức vượng, phát phúc phi thường, bởi vậy có thể đột nhiên hưng thịnh. Từ bần
hàn tới cực phẩm đều là do hành vận đắc địa, mới có thể được hưng vượng, nếu
vận không đến thì sẽ là người bình thường. Người có khởi đầu và kết thúc phát
đạt mà ở giữa lại tăm tối, đó là vì nhật chủ chủ kiện vượng, dụng thần cũng
vượng, hai bên tương đương, sẽ là người con tài giỏi sinh trong nhà quyền quý,
lớn lên lập nghiệp, cần gặp Cát tinh, nếu Đại vận tới nguyên mệnh, gặp Tài mà
cướp Tài, gặp Quan sẽ làm tổn Thương Quan, gặp Ấn mà phá Ấn, gặp Thực thần mà
giết Thực thần thì gặp hoạ nhiều không kể xiết, bởi vậy, người mệnh này gặp năm
thịnh thường bị thụt lùi, không thể phát đạt; Nếu vận ác vừa qua đi, lại gặp
vận tốt trợ giúp thì sẽ có dụng thần mới, sẽ giống như là mầm cây héo khô gặp
mưa rơi, bừng bừng trỗi dậy; hồng mao gặp gió, tung bay khắp nơi, thịnh vượng
không thể khống chế. Còn có người nửa đời người đầu khó khăn, nghèo khổ, nửa
đời sau lại rất thành công, là vì thân trong Tứ trụ mạnh mẽ, Dương Nhẫn và Tỷ
Kiên lại tranh vượng, Tài, Quan, Sát thần đều hư vô, suy yếu, không có sức mạnh
khiến mệnh chủ thành công. Ra khỏi cửa vận hành lại không ở nơi phúc, bởi vậy
cả đời cơ cực, lao động vất vả mà chẳng được là bao, tới cuối đời, đột nhiên
gặp vận tốt trợ giúp, Tài, Quan, Sát thần đang suy yếu được bổ sung, lại mượn
Sát làm quyền, chế phục Dương Nhẫn, lúc này hoặc có được quyền quý mà ngẩng cao
đầu, hoặc có được tiền của mà phát phúc". Còn phán đoán như thế nào thì
cần tuân thủ theo sự trong đục của Ngũ hành, lần lượt đoán định dựa vào từng
mệnh gặp phải. Giàu nghèo có số, phú quý tại trời, đến cả Khổng Tử cũng từng
nói như vậy, lẽ nào trí tuệ của con người có thể làm thay đổi được đạo lý này?
51. MỆNH CỤC HƯNG
VONG SINH TỬ CỦA CON NGƯỜI
Từng có người hỏi hưng vong sinh tử của con người là thế
nào? Xin trả lời rằng: Phàm là trong mệnh cục có Sát là dụng thần, Sát thần
không được chế phục là người vô cùng nghèo khổ. Cũng có người trở thành phú ông
giàu có bậc nhất, song cần gặp vận chế phục, mượn Sát để hưng thịnh, dù thế nào
cũng không thể thoát khỏi chế phục. Đại vận vừa gặp chốn Tài, do Tài có thế kết
hợp với Sát, lại gặp lưu niên thì Tài Sát sẽ hỗ trợ lẫn nhau, hợp lực trở thành
hoạ hoạn. Người này nhất định phải sống cô đơn, nghèo khổ. Khắc hại nhẹ thì
khuynh gia bại sản, bị hình phạt lưu đày; khắc hại nặng thì sẽ chết nơi đất
khách quê người, bị hành hình đến chết. Nếu Sát thần gặp hợp thì cũng sẽ gây ra
hung như vậy. Vận gặp Dương Nhẫn, suy đoán giống như Sát thần, lại có thêm
Nguyệt lệnh trong trụ có chính khí Quan tinh thì cho thấy cả đời phú quý, chỉ
có gặp Tài tinh, Ấn tinh mới có lợi. Quan tinh thích hợp sinh ở nơi Tài vượng,
được Ấn vượng bảo vệ. Nếu Quan tinh có Tài tinh tương sinh, Ấn tinh tương hộ,
thì sẽ hành nhân nghĩa, ban ân đức, trị vì đất nước, quyền trọng tước cao. Nếu
Sát thần đắc vị, Thái Tuế và Sát thần cùng tới, Quan hoá thành Quỷ thì sẽ mất
mạng. Có Quan mà không hành Sát vận hoặc hành Thương Quan vận, lại không có Ấn
Thụ chế phục sẽ khiến Thương Quan đắc địa, quý lộc bị tổn thương, đây là mệnh
giết vợ khắc con, mất chức tước, gặp tai nạn; Nếu lại gặp lưu niên cùng kết
đảng thì người này sẽ phải chết thảm. Nếu học thức uyên thâm, biết được điểm mấu
chốt của tiến thoái tồn vong thì có thể bảo vệ được thân thể, dù không gặp hoạ
chết bất ngờ, thì cũng sẽ chết vì bệnh tật không chữa trị nổi. Còn có người
dụng thần trong Tứ trụ không Quan, không Sát, không có khí, chỉ có Thiên Tài,
Chính Tài ở nơi đất vượng, đây là Tài thần đương đạo, có thể duy trì sự hưng
vượng dài lâu, tích tụ được rất nhiều của cải. Tuy nhiên ít có quan cao lộc
dày, còn cần xem hành vận ra sao. Nếu gặp Quan, Lộc ở vào nơi vượng là người
phú quý song toàn; nếu gặp bất hạnh, trong mệnh cục không thấy Tài thần mà lại
gặp Dương Nhẫn, lại thêm lưu niên xung hợp Dương Nhẫn thì Tài thần tổn thương,
Nguyên mệnh suy tuyệt, do Dương Nhẫn mà sinh tai hoạ thì chắc chắn bại vong. Là
sinh hay là tử thì cần xem cách cục, nếu Ấn Thụ gặp Tài, lại hành Tài vận, có
thêm tử tuyệt thì chắc chắn về nơi suối vàng. Nếu trong Tứ trụ có Tỷ Kiên thì
may ra sẽ được hoá giải. Nếu Chính Quan gặp sát tinh và Thương Quan tới hình,
xung, phá, hại, Tuế vận lại tới xung hợp chắc chắn sẽ chết. Nếu cách cục của
Thương Quan, Tài vượng thân yếu, Quan sát hỗn loạn tới xung Dương Nhẫn, Tuế vận
lại gặp xung thì sẽ phải chết. Nếu có chế phục thì sẽ gặp hoạ thương tích. Nếu
trong mệnh cục có củng Lộc, củng Quý, điền thực, lại gặp Quan sát, Kiếp vong
xung Nhẫn, nếu Tuế vận lại gặp lần nữa thì sẽ tử vong. Cách cục Nhật Lộc quy
thời gặp phải hình xung phá hại, gặp Thất Sát, Quan tinh, Không Vong xung Nhẫn
thì chắc chắn tử vong. Sát Quan đặc biệt kỵ Tuế vận hợp, nếu hợp thì sẽ chết.
Mệnh cách còn lại đều kỵ Sát thần và điền thực, nếu Tuế vận cùng tới thì chắc
chắn sẽ chết. Nếu gặp hung thần ác sát, như Câu Giảo, Nguyên thần, Vong thần,
Kiếp sát, Điếu khách, mộ, bệnh, tử là "một phần sống, 9 phần chết". Tài
tinh và Quan tinh quá nhiều, thân yếu; Nguyên mệnh phạm Thất Sát, thân nhẹ, như
một người có can ngày là Bính Đinh, giờ, tháng, năm Canh Tân gặp vận Dậu hoặc
năm Canh Tân thì chắc chắn sẽ tử vong; hay như một người có can Giáp Ất, giờ,
tháng Canh Tân đan xen, lưu niên và đại vận gặp Canh Tân thì cũng sẽ phải chết.
Nếu được cứu là cát, không được cứu thì hung. Thần sát trong Ngũ hành nhiều Kim
thì cho thấy chết yểu, nhiều Thủy thì cho thấy lang thang, phiêu bạt, nhiều Mộc
thì cho thấy chết yểu, nhiều Thổ thì cho thấy đần độn, nhiều Hỏa cho thấy ngu
ngốc, gàn dở. Nếu quá nhiều hoặc quá ít thì khi vận dụng suy đoán cần nhớ kỹ:
thứ nhất, không thể câu nệ cố chấp, không biết ứng biến linh hoạt; thứ hai, cần
mạnh dạn quyết đoán. Sinh tử của một người rõ ràng quyết định ở sinh tử của Ngũ
hành, ví như ngày Nhâm sinh vào tháng 12, hành vận Thân, tức tử; sinh vào tháng
7, hành vận Mão tức tử. Đây là "gặp sinh sợ tử, đã tử sợ sinh", tạo
hoá tự nhiên cũng giống như con người và sự vật, cần kết hợp lại để phân tích
kỹ lưỡng.
52. SINH TỬ CỦA ĐỜI
NGƯỜI ĐỀU ĐÃ ĐƯỢC ĐỊNH TRƯỚC
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét