Phàm khi người xưa viết một cuốn
sách tất coi trọng việc định danh nghĩa cho nó. Vậy thì ý nghĩa của cái tên
"Chu Dịch" là gì?
Trước hết nói về chữ
"Chu".
Về nghĩa chữ "Chu",
xưa nay có hai thuyết: (1) Nói "Chu" là chỉ nhà Chu. "Chu Dịch
chính nghĩa • Tự" nói: "Xét các sách như "Thế phả",....,
Thần Nông gọi là Liên Sơn thị, còn gọi là Liệt Sơn Thị; Hoàng Đế gọi là Qui
Tàng thị "Liên Sơn" "Quy Tàng" đã là biệt hiệu, thì
"Chu" trong "Chu Dịch" là lấy tên đất Kỳ Dương. "Mao
Thi" nói: "Chu nguyên vô vô" là như vậy. Lại nữa, khi Văn Vương
làm "Dịch" là lúc ông đang ở Dữu Lý, khi đó đức nhà Chu chưa hưng mà
vẫn đang còn là đời Ân, cho nên viết "Chu" là để phân biệt với nhà
Ân, Văn Vương làm Dịch với cái tên như vậy, nên gọi là "Chu Dịch".
Cũng như "Chu Thư" "Chu Lễ" vậy, viết Chu là để phân biệt
với các đời khác. Cho nên "Chu Vĩ" nói: "Do vì đời mà đề
"Chu" là vậy". (2) Nói chữ "Chu" lấy nghĩa từ
"chu phổ". "Chu Dịch chính nghĩa • Tự" dẫn lời Trịnh Huyền
chú thích trong "Chu Lễ" về nghĩa của "Tam Dịch":
"Liên Sơn" là tượng trưng cho mây bay ra từ núi liên tục không dứt,
"Quy Tàng" là vạn vật không gì là không quy tàng trong nó; "Chu
Dịch" là nói đạo Dịch phổ biến khắp nơi, không nơi nào không có". Lục
Đức Minh trong "Kinh điển thích văn" cho là: "Chu là tên đời;
chu là đến, là khắp nơi, là đầy đủ, nay đặt tên sách với cái nghĩa là "chu
phổ". Thế là tuy họ Lục lấy cả hai thuyết nhưng thực ra là giữ nghĩa "chu
phổ". Khổng Dĩnh Đạt nêu rằng: "Tiên nho lại lấy luôn cả thuyết của
họ Trịnh đã nói với cái tên là đời Chu, lại cũng lấy nghĩa là phổ biến, tuy
muốn không bỏ đi nghĩa nào, e rằng cũng không thể tận thông. Trong
"Dịch" viết "Chu" là theo đời mà gọi "Chu", như
vậy là tiên nho càng không giải rõ". ("Chu Dịch chính nghĩa •
Tự"). Từ Khổng Dĩnh Đạt tới nay, các nhà chú giải "Dịch" chủ
trương "Chu" là đời Chu rất đông, nay ta nên theo ý đó.
Lại bàn về chữ "Dịch".
Về nghĩa của chữ
"Dịch", xưa nay các thuyết về nó rất nhiều. Khảo nghĩa gốc của nó,
nên lấy nghĩa là con "kì nhông". "Thuyết văn" nói:
"Dịch, là con kì nhông, là con thằn lằn, là con thạch sùng. Tượng
hình". "Chữ này chữ triện, rất giống hình con kì nhông; kì nhông là
động vật thuộc loài thằn lằn, nó có thể đổi màu trong 12 giờ nên giả tá là
"dịch", "biến dịch". Khổng Dĩnh Đạt nêu rằng:
"Dịch" là từ chỉ chung vế sự biến đổi; đặc biệt chỉ sự thay đổi. Từ
thuở khai thiên lập địa, âm dương vận hành, lạnh nóng kế tiếp nhau, mặt trời,
mặt trăng mọc thay nhau, muôn loài nẩy nở, hóa dục mọi vật, mới lại mới không
ngừng, sinh lại sinh kế tiếp, không gì mà không có sức biến đổi, không có công
thay thế. Tuy nhiên, biến hóa vận hành là ở hai khí âm dương, cho nên thánh
nhân buổi ban sơ vạch tám quẻ, định hai vạch cứng mềm tượng trưng cho hai khí;
đặt ra ba ngôi, tượng trưng cho Tam tài. Gọi như thế là "dịch", là
lấy nghĩa biến đổi". ("Chu Dịch chính nghĩa • Tự"). Còn các
thuyết khác, xin chọn sáu loại chủ yếu: (1) "Chu Dịch càn tạc độ"
nói: "Dịch", một tên hàm ba nghĩa là dị, là biến dịch, là bất dịch",
tức nói "Dịch" gồm ba tầng ý nghĩa là "giản dị" "biến
dịch" và "bất biến". Sách này còn giải thích rõ: "Dị là đức
của nó. Sáng rõ khắp bốn phương, giản dị mà lập tiết, trời tỏ chói lọi, mặt
trời, trăng sao phần rải khắp nơi, tinh thông không bờ bến, sự thần diệu tiềm
tàng khắp chốn, không phiền không nhiễu, đạm bạc không mất, đó là
"dị" vậy. Biến dịch là khí của nó. Trời đất không biến đổi, không thể
thông khí, Ngũ hành thay đổi đến tận cùng, bốn mùa lần lượt tàn, vua tôi quan
sát hình tượng, thời tiết thay nhau chuyển di, vật có thể "tiêu" lại
"tức", kẻ chính chuyên thì lại bại, đó là "biến dịch" vậy.
Bất dịch là vị thế của nó. Trời ở trên, đất ở dưới, vua mặt quay về nam, bầy
tôi mặt quay về bắc, cha ngồi con phục dưới, đó là "bất dịch" vậy.
(2) "Thuyết văn" lại dẫn: "Bí thư nói: "Mặt trời, mặt trăng
là "dịch", tượng trưng cho âm dương vậy", lại còn nói:
"Tòng vật". Khảo "Dịch chú" của Ngu Phiên dẫn "Tham
đồng khế" nói: "Về mặt chữ thì theo với nhật, dưới có nguyệt; có
nghĩa là mặt trăng, mặt trời luân lưu, tương giao, biến dịch vói nhau, ý nghĩa
của nó giống với lời dẫn của "Thuyết văn". Các nhà Nho đời Thanh
nghiên cứu "Ngu thị Dịch" phần nhiều theo thuyết này. Duy nghĩa của
"tòng vật" thì rất khó thông. (3) Mao Kỳ Linh thời đầu Thanh soạn
"Trọng thị Dịch", tổng kết sơ qua các thuyết của tiên nho, nói:
"Dịch kiêm cả năm nghĩa là "biến dịch", "giao dịch",
"phản dịch", "đối dịch", "di dịch". Cái gọi là
"phản dịch", thực ra tức là "đối phản" của Ngu Phiên,
"di dịch" tức là "thăng giáng" của Tuân Sảng, "đối
dịch" cũng như "bàng thông" của Ngu Phiên: Ở đây phần lớn là lấy
các điều lệ nói về "Dịch" thời Hán Ngụy để chú thích cái tên
"Dịch", nghĩa tuy chưa phải là rõ ràng, hoàn bị, song nếu chưa phải
là một sự ức đoán sâu sắc thì cũng là một sự cần cù của công sức (4) Ngô Chấp
Phủ tiên sinh soạn "Dịch thuyết" lại có cách chú giải riêng, ông nói:
"Dịch là tên gọi sự bói toán, nhân nó mà đặt tên cho sách ấy". Hành
đường Thượng Tiết Chi tiên sinh tôn sùng thuyết đó, nói rằng "năng lự vật
dịch" trong "Sử kí • Lê thư" có nghĩa là người biết tính liệu
thì không bói, cho nên cả quyết cho chữ "dịch" khi dịch từ cổ văn ra
có nghĩa là" "chiêm bốc". (5) Bài "Thời gian và tác giả của
lời quẻ, lời hào trong "Dịch" của Dư Vĩnh Lương (đăng trong cuốn
"Lịch sử ngôn ngữ nghiên cứu sở tập san" tập 1, phần 1 của Viện
nghiên cứu trung ương, xuất bản năm 1931) cho rằng, Phệ pháp do người thời Chu
đặt ra để thay thế và bổ trợ cho Bốc pháp, giản dị hơn so với bói bằng mai rùa,
cho nên đặt tên sách là "Dị". Thuyết này so với nghĩa "dị
giản" trong "Càn tạc độ", về "danh" thì giống nhau,
nhưng về "thực" thì khác nhau. (6) Bài "Luận vế mặt trời
mọc" của Hoàng Chấn Hoa (đăng trong "Triết học niên san" tập 5,
đo Đài Loan thương vụ ấn thư quán ấn hành tháng 11 năm 1968), căn cứ vào chữ
"Dịch" viết thành " "
trong giáp cốt văn thời Ân, cho rằng tự hình của nó tượng trưng cho "nhật
xuất" (mặt trời mọc), đỉnh nhọn phía trên biểu thị mặt trời mới mọc, đường
cong giữa biểu thị mặt bằng của biển hoặc đường viền của núi, ba đường nghiêng
phía dưới biểu thị ánh sáng mặt trời. Và nói "mặt trời mọc" tượng
trưng cho sự biến đổi âm dương, nghĩa cũng chủ về "biến dịch". Tổng
hợp những điều mọi nhà nói thì thấy các thuyết rất phân tán. Chúng tôi cho là
nghĩa của nó nên căn cứ vào nghĩa gốc và nghĩa hình thành về sau mà xem xét.
"Hệ từ thượng truyện" nói: "Thánh nhân đặt quẻ, xem tượng ghép
lời đoán vào mà tỏ "cát hung", cứng mềm đẩy nhau mà sinh ra biến
hóa".
"Hạ truyện" nói:
"Bát quái thành hàng thì tượng có ở trong đó, rồi nhân đó mà chồng lên
nhau thì hào có ờ trong đó; cứng mềm đẩy nhau mà có sự biến hóa ở trong; ghép
lời vào mà đoán thì sự động có ở trong đó". Từ đó có thể thấy nghĩa gốc
của các danh thư về "Dịch" là "biến dịch", chú thích của
"Thuyết văn" cũng theo đó; các nghĩa như: "dị giản"
"bất dịch",... là các thuyết có về sau. Còn cái gọi là
"Dịch" mà kiêm năm nghĩa "biến dịch", "giao
dịch", "phản dịch", "đối dịch", "di dịch",
thực ra đều không tách khỏi phạm vi nghĩa của chữ "biến dịch"; nói
"biến dịch" thì cả năm nghĩa trên đều có hết. Còn như lấy "nhật
nguyệt" để giải thích hình chữ thì ý của chúng khác nghĩa "biến
dịch". Cũng đều có thể để tham khảo. Tên sách "Chu Dịch" dịch
nghĩa ra tiếng Tây phần nhiều đều dịch là "Sách về sự biến đổi" (The
Book of Changes), tức là người dịch nhất chí với nghĩa gốc của chữ
"Dịch", như vậy là rất xác đáng.
Tóm lại, về nghĩa của cái tên
"Chu Dịch", "Chu" là tên đời, "Dịch" chính là
"biến dịch". Cách kinh sách thời cổ đều gọi gọn là "Dịch",
tức muốn nhấn mạnh ý lớn "biến đổi" của sách. Còn cái tên "Lục
kinh" được bắt nguồn từ đệ tử của học trò Khổng Tử (theo thuyết của Trương
Học Thành trong "Văn sử thông nghĩa") đầu Tây Hán, "Chu
Dịch" được coi là nhất trong các kinh của khoa cử, các học giả bèn tôn
xưng là "Dịch kinh". Lại do "Dịch truyện" được hợp với kinh
cùng lưu hành, nên về sau theo nghĩa rộng "Chu Dịch" kiêm chỉ cả
"Kinh" và "Truyện". Đó là khái quát về tình trạng của cái
tên "Chu Dịch" và sự biến đổi trước sau của nó.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét