Chủ Nhật, 20 tháng 4, 2014

NHÂM QUÝ



Nhâm: Dương Thuỷ - sinh vào mùa xuân, hạ là cát
Thuộc tính của Nhâm Thuỷ là Dương, là Thuỷ chảy ở đầm nước ngọt, có thể nuôi dưỡng cỏ cây, vạn vật. Người sinh ngày Nhâm, sinh vào tháng mùa xuân, mùa hạ là tốt nhất. Nếu sinh vào tháng mùa thu, mùa đông kém cát hơn một chút. Nếu gặp Dần, Ngọ, Tuất, Quan tinh, có thể có khí trợ giúp, có thể có danh tiếng lẫy lừng. Nếu gặp Kim cục, lại sinh vào tháng tám, cũng có thể có danh lợi song toàn. Nếu gặp Thuỷ cục, lại sinh vào tháng ba, là sao Thiên Đức chiếu mệnh, chủ về phú quý. Nếu sinh ngày Nhâm và địa chi là Hợi, Mão, Mùi hành vận ở phương nam có thể sẽ phát tài.


Quý: Âm Thuỷ - sinh vào thời điểm giữa mùa xuân và thu là cát
Thuộc tính của Quý Thuỷ là Âm, Là Thuỷ của biển cả rộng lớn, không thể nuôi dưỡng vạn vật. Cũng có quan điểm cho rằng Quý Thuỷ là nước mưa, sương ở các ao hồ, có thể trợ giúp vạn vật sinh trưởng. Người sinh ngày Quý, sinh vào thời điểm giữa mùa xuân và mùa thu là tốt nhất, hành vận ở phương vị Tỵ, Ngọ, Tuất thuộc Hoả sẽ vô cùng phát đạt; Tối kỵ phạm vào phạm vào vận Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, dù có thành công cuối cùng cũng thất bại. Địa chi Hợi, Mão, Mùi hợp thành Mộc cục, tổn vượng ích tài. Nếu không gặp Dần Giáp, danh lợi song toàn. Nếu gặp Kỷ Thổ và tháng Sửu, Mùi, lại mang Tam hình chủ về kinh tế bình thường, khi bắt đầu chưa chắc đã thành công, nhưng cuối cùng cũng sẽ phát đạt. Nếu trong Ngũ hành có trợ giúp thân vượng. Hành vận gặp Tài, Quan cũng rất tốt, mệnh chủ nhất định sẽ được phú quý.

Sinh ngày Nhâm, Quý: được Kim trợ giúp - chủ về quý
Người sinh ngày Nhâm, Quý, toạ ở chi Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, Tỵ, Ngọ là Huyền Vũ đương quyền. Nên hành vận ở ranh giới của Hoả, Mộc. Nếu thái quá hay thiếu, thiên về Âm thiên về Dương, đều là quý mà không thực. Nếu sinh vào bốn tháng quý thuộc Thổ, và tháng Tỵ, Ngọ, có trụ giờ là Hợi, Tý; hoặc sinh vào mùa đông, có trụ giờ là Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, Tỵ, Ngọ đều quý. Nếu không sinh vào những giờ đó chỉ có hư danh, hư lợi.Thích hành vận ở ranh giới giữa Kim, Thuỷ. Được Kim trợ giúp thì vinh; Không có Kim thì Thuỷ tuyệt. Kỵ gặp Tỷ Kiên, Kiếp Tài. Nếu sinh vào tháng mười một trong mùa đông, địa chi lại có tam hợp Thuỷ cục thì Thuỷ tràn lan khắp nơi, Thổ sạt lở. Cho nên, Thuỷ không có Thổ sẽ tràn lan, Thổ không có Thuỷ sẽ khô cằn; Thổ có Thuỷ được ẩm ướt và thông khí; Thuỷ có Thổ thành đê, thành sông. Hai nguyên tố này có thể trợ giúp lẫn nhau. Nếu lại có vận khí thích hợp nhất định có phúc, quý, hiển đạt.

Xác định Tài, Quan của người sinh vào sáu ngày Nhâm
Người sinh vào sáu ngày Nhâm, ngoài ngày Nhâm Thìn là Khôi Cang có hợp, kỵ của Tài Quan luận theo trụ ngày; năm ngày Nhâm Dần, Nhâm Tý, Nhâm Thân, Nhâm Ngọ, Nhâm Tuất đều coi Bính, Đinh thuộc Hoả là Tài, Kỷ Thổ là Chính Quan, Mậu Thổ là Thiên Quan. Nếu trong Tứ trụ có can Bính, Đinh, Kỷ, phải sinh vào Hoả, Thổ cục của tháng mùa hạ và bốn tháng quý thì Tài, Quan mới có tác dụng. Nếu không có ba can đó, nhưng sinh vào mùa hạ thuộc Hoả cục cũng có thể coi là có Tài, Quan. Gặp Nhâm, Quý thuộc Thuỷ là Kiếp Tài; gặp Ất Mộc là Thương Quan, không có lợi cho danh lợi. Nếu sinh vào mùa xuân, mùa đông, hoặc thuộc Thuỷ, Mộc cục, dù có Tài, Quan cũng không có khí; dù được trợ giúp cũng không có nhiều danh lợi. Thích hành vận ở phương nam, bốn tháng quý thuộc Hoả; Thổ; ở phương vị hướng quan lâm tài. Nếu trong trụ có Mậu, Kỷ là Quan và Sát hỗn tạp. Nếu không có nhân tố khắc chế lại chủ về nghèo khổ, hạ tiện. Nếu trong Tứ trụ không có Kỷ mà có Mậu, và không có nhân tố khắc chế được coi là Quỷ. Cần phải phân biệt mức độ mạnh, yếu của quỷ mới có thể đoán định cát hung, thọ yểu. Nếu khắc chế thích hợp là Thiên Quan; khắc chế thái quá lại không có phúc. Càng phải xem xét kỹ lưỡng can của trụ ngày trong trụ tháng có được trợ giúp hay không, phân biệt tình hình của tiết khí rồi mới luận đoán. Thích hành vận ở phương vị thân vượng, Quỷ suy; kỵ hành vận ở phương vị thân suy, Quỷ vượng.

Xác định Tài, Quan của người sinh vào sáu ngày Quý
Người sinh vào sáu ngày Quý như Quý Dậu, Quý Mùi, Quý Tỵ, Quý Mão, Quý Sửu, Quý Hợi coi Bính, Đinh thuộc Hoả là Tài, Mậu Thổ là Chính Quan, Kỷ Thổ là Thiên Quan. Nếu trong Tứ trụ có can Bính, Đinh, Mậu, chỉ có sinh vào Hoả, Thổ cục của tháng mùa hạ và bốn tháng quý thì Tài, Quan mới có tác dụng. Nếu trong Tứ trụ không có ba can đó, nhưng sinh vào tháng mùa hạ và bốn tháng quý thuộc Hoả, Thổ cục cũng có thể coi là có Tài, Quan. Gặp Nhâm, Quý thuộc Thuỷ là Kiếp Tài, gặp Giáp Mộc là Thương Quan, không cát lợi. Nếu sinh vào mùa xuân, mùa đông thuộc Thuỷ, Mộc cục dù có Tài Quan cũng không có khí. Thích hành vận ở phương nam và bốn tháng quý thuộc phương vị của Tài, Quan. Kỵ có Quan và Sát hỗn tạp; nếu có sát mà không có nhân tố khắc chế được coi là Quỷ. Nếu khắc chế thái quá thì hung. Càng phải xem xét kỹ lưỡng can của trụ ngày trong trụ tháng có được trợ giúp hay không rồi mới phán đoán. Hợp, kỵ của hành vận giống với trường hợp người sinh vào sáu ngày Nhâm.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét