Dương hỏa - sinh vào mùa xuân, hạ thì cát
Thuộc tính của Bính Hỏa là
Dương, là chính khí của mặt trời, có thể sản sinh ra vạn vật. Người sinh vào
ngày Bính sinh vào mùa xuân, mùa hạ là tốt nhất, tự nhiên có thành tựu, tinh
thần dồi dào. Nếu lại gặp Thiên Đức, Nguyệt Đức, hành vận ở phương đông vô cùng
cát lợi. Dù gặp Nhâm, Quý thuộc Thuỷ cũng tương đối tốt. Nhưng kỵ gặp Mậu Thổ
vì bị mất khí. Trong đại vận, nếu phạm vào Thái Tuế sẽ gặp tai hoạ như chịu
hình ngục của quan phủ, phá sản, mặc tang phục. Người sinh vào ngày Bính nếu
sinh vào mùa thu, mùa đông, và lại sinh vào giờ Tý ban đêm, chính là mệnh nô
bộc, chủ về cả đời ly biệt người thân, cô độc, thương tật, nghèo khổ.
Đinh: Dương Hoả - sinh vào ban đêm là cát nhất
Đinh Hoả thuộc Âm, là Hoả bình
thường trong nhân gian, có thể chế tạo ra vạn vật. Vàng, bạc, đồng, sắt nếu
không có Đinh Hoả nung luyện không thể thành đồ vật. Người sinh vào ngày Đinh,
nếu sinh vào ban đêm, trụ tháng là Ty, Dậu, Sửu thuộc Kim là cát nhất. Nếu sinh
vào tháng giêng gặp Dần là mệnh có sao Thiên Đức chiếu, lại có chi Mão nữa càng
cát lợi hơn. Kỵ gặp Nhâm, Quý thuộc Thuỷ. Nếu sinh vào ban ngày khắc vợ hại
con. Vận hành ở phương nam bị mất chức quan. Vận hành ở phương tây bắc là đại
quý.
Người sinh ngày Bính, Đinh, tự toạ
ở phương vị Thân, Tý, Thìn, Hợi thuộc Thuỷ, lại có trụ giờ thuộc Kim. Ví dụ,
sinh vào tháng Dần, Ngọ, Tỵ, là Thuỷ và Hoả tương trợ, chủ về đại quý. Nếu sinh
vào tháng năm trong mùa hạ, kỵ có tam hợp Hoả cục, vì Hoả bốc cháy khiến Thuỷ
khô cạn. Nếu sinh vào tháng Tý thuộc mùa đông cũng kỵ có tam hợp Thuỷ cục, vì
Thuỷ vượng Hoả bị dập tắt Thuỷ và Hoả ngang sức nhau, trợ giúp lẫn nhau mới là
thích hợp nhất. Đại vận nên hành ở phương tây bắc - phương vị của Kim, Thuỷ.
Nhưng kỵ thái quá hoặc thiếu, thiên về Âm, thiên về Dương, có hoa mà không kết
hạt, không có thành tựu. Nếu sinh vào tháng Thân, Tý, Thìn, Hợi địa chi của trụ
giờ phải là Dần, Ngọ, Tuất, Tỵ mới là quý mệnh. Nếu không sinh vào những giờ
đó, phải hành vận Mộc. Nếu không, sẽ chỉ có hư danh.
Xác định Tài, Quan của người sinh vào sáu ngày Bính
Người sinh vào sáu ngày Bính như
Bính Dần, Bính Tý, Bính Tuất, Bính Thân, Bính Ngọ, Bính Thìn, coi Canh và Tân
là Tài, Quý là Chính Quan, Nhâm là Thiên Quan. Nếu can của năm, tháng, trụ giờ
là Canh, hoặc Tân, hoặc Quý, chỉ có sinh vào mùa thu, mùa đông trong Kim, Thuỷ
cục thì Tài Quan mới có tác dụng. Nếu trong Tứ trụ không có ba can này, nhưng
lại sinh vào mùa thu, mùa đông trong Kim, Thuỷ cục cũng có thể coi là có Tài,
Quan. Người sinh vào sáu ngày Bính gặp Bính, Đinh là Kiếp Tài, gặp Kỷ là Thương
Quan, không dễ dàng có được danh lợi. Nếu sinh trong Hoả, Thổ cục vào mùa hạ và
bốn tháng cuối của bốn mùa dù có Tài, Quan, cũng không có khí; dù có được trợ
giúp cũng không có nhiều danh lợi. Người sinh vào sáu ngày Bính, tốt nhất nên
hành vận ở phương tây bắc thuộc Kim, Thuỷ, hành vận hướng Quan lâm Tài. Nếu
trong Tứ trụ đồng thời có Nhâm, Quý là Quan Sát hỗn tạp. Nếu không có nhân tố
khắc chế nó chủ về mệnh nghèo khổ, hạ tiện. Nếu có Nhâm mà không có Quý, không
bị khắc chế được coi là Quỷ. Điều quan trọng là phải phân biệt sự mạnh, yếu của
thân và Quỷ mới có thể nhận định cát, hung, thọ, yểu. Nếu có nhân tố khắc chế
coi là Thiên Quan. Nếu khắc chế thái quá lại không phải phúc mệnh, cần phải
phán đoán kỹ lưỡng xem can của trụ ngày trong trụ tháng có được trợ giúp hay
không, phân biệt tình hình của tiết khí để luận đoán. Hành vận ở phương vị thân
vượng, Quỷ suy là cát; hành vận ở phương vị thân suy, Quỷ vượng là hung.
Xác định Tài, Quan của người sinh vào sáu ngày Đinh
Người sinh vào sáu ngày Đinh như
Đinh Mão, Đinh Sửu, Đinh Hợi, Đinh Dậu, Đinh Mùi, Đinh Tỵ coi Canh, Tân thuộc
Kim là Tài, Nhâm Thuỷ là Chính Quan, Quý Thuỷ là Thiên Quan. Nếu năm, tháng,
trụ giờ có can là Canh, hoặc Tân, hoặc Nhâm chỉ có sinh vào Kim, Thuỷ cục của
mùa thu, mùa đông, thì Tài, Quan mới có tác dụng. Nếu trong Tứ trụ không có ba
can đó, nhưng sinh vào Kim, Thuỷ cục của mùa thu, mùa đông trong Kim, Thuỷ cục
thì cũng có thể coi là có Tài, Quan. Người sinh vào sáu ngày Đinh, gặp Bính,
Đinh là Kiếp Tài, gặp Mậu là Thương Quan, không có lợi cho đường danh lợi. Nếu
sinh vào Hoả, Thổ cục của tháng mùa hạ và bốn tháng cuối cùng trong bốn mùa, dù
có Tài, Quan, cũng không có khí; dù được trợ giúp cũng không có nhiều danh lợi.
Người sinh vào sáu ngày Đinh, hành vận ở phương tây, bắc thuộc Kim, Thuỷ là tốt
nhất; Tối kỵ hành vận ở phương vị Thương Quan, bại tài. Kỵ Quan Sát hỗn tạp. Có
Sát mà không có nhân tố khắc chế được coi là quỷ. Nếu khắc chế thái quá, lại là
mệnh nghèo khổ, hạ tiện. Cần phải xem xét kỹ lưỡng can của trụ ngày trong trụ
tháng có được trợ giúp hay không, phân tích mức độ rồi mới phán đoán. Hợp, kỵ
của vận giống với trường hợp của người sinh vào sáu ngày Bính.
Thơ về người sinh vào sáu ngày Bính
Cư Dần hữu tú thọ thiên trường,
Tại Ngọ hình xung thân diệc cường,
Thân thượng Quỷ cường phùng nguyệt cát,
Tý trung lộc vượng đắc thời xương,
Thìn lâm Quan khố đông sinh kỵ,
Tuất bạng Tài hương hạ bất lương,
Tiêu tức doanh hư huyền diệu lý,
Yếu tinh hưu vượng thuyết hành tàng.
Giải thích
Tại Dần, Kim tuyệt, thuỷ tử, không có Tài, Quan; Bính Hoả
trường sinh, chỉ có Thực thần sinh vượng, nên chủ về có thọ. Có trụ giờ là Kỷ Dần,
Tân Mão, Tân Tỵ thì quý. Ngọ là phương vị vượng của Hoả, gọi là Nhật Nhẫn. Ưa
hình, xung, phá, hại, là Kim bại, Quý tuyệt trong Ngọ, không có tài, Quan. Mệnh
nam khắc vợ, mệnh nữ hại chồng; Gặp Quý Thuỷ, Ất Mộc hung hoạ nhẹ. Canh trong
Thân là Tất, Nhâm là Sát, thân toạ ở phương vị Tài, Quan; sinh vào giờ Canh Dần
là quý. Quý Tỵ gặp Kim Thần hoá khí quý; Trong Tý có Tân sinh Quý, thân vượng
toạ ở phương vị tài, Quan; sinh vào giờ Quý Tỵ, Canh Dần là quý. Tại Thìn, Quan
của thân toạ tại phương vị mộ của Nhâm, Quý; sinh vào giờ Canh Dần là quý. Tuất
là phương vị mộ, trong đó có Tân Kim; khí dư thừa ở cạnh phương vị Tài; sinh
vào mùa hạ thì Tài, Quan không có khí.
hay
Trả lờiXóa