Thứ Tư, 15 tháng 1, 2014

Quan sát tư thế để nhận biết tính cách



Người Xưa nói “quan sát hành vi mà biết tính cách”, chính là nói về đạo lý này. Trừ phi trải qua sự huấn luyện chuyên môn, hành vi của một người nói chung đều bộc lộ những bí mật của nội tâm. Nghiên cứu cho thấy, hoạt động chân tay nói chung đều là sự thể hiện tiềm thức của loài người. Dáng đứng, dáng ngồi của một người thường cũng có thể bộc lộ rõ tính cách của họ.

Tư thế khi tiếp xúc với đối phương, cử chỉ, lời nói và hành động thể hiện thái độ đối đãi của một người đối với đối phương. Liên quan đến điều này, mọi người sớm đã biết, cũng giống như ánh mắt đã nói ở trên, gây sự chú ý cho mọi người. Ví dụ, hai tay bắt lấy nhau và đặt sau lưng, cằm hất lên. Tư thế này thường có thể nhận thấy, giống như những cảnh vệ đi tuần, nhân viên hải quan kiểm tra hành lý, cấp trên nói rõ phương án công ty với cấp dưới, là tư thế của quyền uy.
Thế nào là tư thế chuẩn xác?
Chúng ta biết, hoạt động tâm lý và trạng thái căng thẳng đối với cơ thể, đặc biệt là sự bố trí vị trí và tư thế căng thẳng có ảnh hưởng rất lớn. Nói xa hơn, tư thế cũng ảnh hưỏng đến hoạt động và trạng thái tâm lý của con người. Vì thế, chúng ta có thể thông qua tư thế để đạt được mục đích hiểu xem nội tâm của họ có như ý hay không, tâm tình, tình cảm có bình thường hay không để thay đổi trạng thái tâm lý nào đó, mọi người đưa ra tư thế, động tác, tính toán nhất định nào đó để giải trừ sự căng thẳng của cơ thể. Hơn nữa, những tư thế và động tác này nói chung đều tiến hành hoặc hình thành mà không hề hay biết. Có thể nói là tuỳ theo trí tuệ hoặc bản năng bẩm sinh của con người.
Đối với vấn đề giải trừ sự căng thẳng, thời cổ đại đã tiến hành nghiên cứu một cách có ý thức, có kế hoạch. Công pháp của các thể loại Yoga và ngồi thiền đã chứng minh điều này.
Ngoài ra, từ xưa đến nay, khi đọc sách, viết chữ, cầu khấn thần linh phù hộ cho mình cũng đều có những tư thế cố định. Những tư thế này qua rất nhiều sự kiểm nghiệm thực tiễn, chỉ có làm như vậy mới có thể giành được hiệu quả như mong muốn. Trước tiên từ hình thể, tư thế bắt tay, đây cũng chính là nguyên tắc tu hành.
Tư thế đối ứng trực tiếp với sự căng thẳng. Nhà sinh lý học Yagebulin của Mỹ đã nghiên cứu và cho rằng: Không phải là cứ cố gắng thay đổi sự căng thẳng về cơ bắp mà giải trừ căng thẳng. Phương pháp mà ông áp dụng là: Thông qua việc hạn chế sự căng thẳng về cơ bắp không cần thiết, hoàn toàn thả lỏng cơ thể để giải trừ sự bất an, lo lắng hoặc chứng thần kinh về tâm lý. Phương pháp này gọi là “phương pháp tiến dần đến sự thả lỏng”, hiện nay được áp dụng rộng rãi trên thế giới.
Người không khoẻ mạnh về tâm lý, khi khôi phục sức khoẻ về tâm lý, cơ thể cũng được giải phóng trong tư thế nghiêng lệch, trở thành tư thế khoẻ mạnh bình thường. Do đó, xem ra phải một lần nữa đánh giá lại tính quan trọng của sự thay đổi tư thế.
Như vậy, trên thế giới có “tư thế chính xác” hay không? Tư thế chính xác phải như thế nào? Câu trả lời là trên thế giới có tồn tại tư thế chính xác, nó phân thành hai loại, một loại là chỉ tư thế thích hợp nhất khi làm việc, hai là chỉ tư thế không liên quan đến tính thích ứng. Tư thế thường có trong mọi người có tính phổ biến, tư thế lý tưởng.
Bây giờ chúng ta bàn một chút về những động tác của vai.
Vai phân thành vai trái và vai phải, nhưng vai có tác dụng chủ yếu là vai phải. Nếu bạn thấy cửa hàng âu phục, hỏi thăm một chút bạn sẽ biết, đa số vai bên phải thấp hơn vai bên trái. Đương nhiên cũng có một số người có vai phải cao, vai trái thấp. Vai cao đích thực là thể hiện dáng vẻ có sức lực, vì thế nên coi là tư thế căng thẳng. Nhưng vai thấp cũng hoàn toàn không có nghĩa là không có sức lực. Khi ấn nó xuống phía dưới, nó cũng sẽ bị căng thẳng.
Vai rủ xuống là nhấc lên cùng với một bên lưng, hình thành trạng thái căng thẳng và sự định hình của nó, làm cho toàn bộ phần thân người giữa vai rủ xuống và lưng nhấc lên bị co lại. Sự co lại này sẽ tạo cho mọi người sự nhức mỏi.
Đôi khi, khi nâng lên thì thường là để vươn rộng vai ra phía sau, và ưỡn ngực một lát. Nhưng thời gian vai nâng lên lâu, như thế không nhất thiết cần có tác dụng này. Động tác dường như là phải nghĩ cách làm cho vai dựa nghiêng sang bên phải và sát vào đầu sẽ hình thành tư thế hơi uốn cong lưng về phía trước. Tư thế giống như là bảo vệ cho đôi vai và cổ của mình, sẽ khiến cho mọi người cho là một dáng vẻ gò bó.
Người có thói quen nhún vai, khi nhún vai sẽ khiến cho mọi người cảm thấy cơ thể đặc biệt giống như một khúc gỗ vừa cứng vừa mỏng, không có một chút sức lực nào. Người qua độ tuổi 40, nói chung vai đều có dáng vẻ như vậy. Những người này khi nhún vai, đồng thời còn có thể phát hiện, cùng một bên bả vai mà họ nhún, từ thân người đến phần lưng trở nên cứng đờ. Hơn nữa, dường như là để duy trì trạng thái cứng đờ này, họ thường khoanh tay của cùng một bên lên trước ngực (hoặc cố sức vươn ra ngoài), giống như là nâng một đồ vật dễ vỡ một cách cẩn thận. Họ làm động tác như vậy là muốn duy trì phong thái của mình. Nhưng trên thực tế, họ đã cảm thấy lực bất tòng tâm, hơn nữa vừa nghĩ đến liền cảm thấy rất đau khổ.
Nếu hai vai muốn làm tư thế tương tự, nói chung là thu hẹp bả vai phía trước, hoặc vươn ra phía sau. Kiểu thứ nhất có hình chữ “G” và những tư thế tương tự. Kiểu thứ hai đa số là kiểu trái ngược với cơ thể, tức là nâng lưng, phần mông nhô ra bên ngoài, giống như tư thế đứng nhưng không phải là đứng.
Vai là bộ phận không thể thiếu để cấu thành tư thế của nửa thân trên. Mọi người có thể thông qua tư thế cấu thành bởi đôi vai của đối phương mà phán đoán đối phương, đồng thời đưa ra những đối sách tương ứng.
Bây giờ hãy quan sát phần sống lưng và phần lưng của một người.
Bộ phận gây sự chú ý cho mọi người nhất trên thân người chính là phần lưng gù của thân trên và phần lưng nhô ra của thân dưới. Cho dù mức độ cong của phần lưng gù có phần nghiêm trọng và nhỏ bé, nhưng chúng đều thuộc tư thế có liên quan đến kiểu chữ “G”. Loại hình này có sự liên hệ nội tại với sự suy thoái tình cảm và tinh thần bạc nhược trong nội tâm của con người. Tư thế này nói chung không có quan hệ đáng kể đến sự già yếu của cơ thể con người. Bởi cho dù là người lưng còng, sau khi đến một độ tuổi nhất định, trong sự thả lỏng thích hợp, sau khi tiến hành luyện tập phần đùi và lưng thì cũng có thể làm cho lưng sẽ khôi phục một cách tự nhiên đến trạng thái thắng đứng. Ví dụ này trong cuộc sống thực tế là không ít. Điều này cũng nói rõ một vấn đề, đây chính là phần còng của sống lưng, hình thành mức độ nghiêm trọng kiểu chữ “G”, là có liên quan đến phần đùi và lưng.
Có thể coi lưng là trung khu của động tác hoặc của tư thế để suy xét. Trạng thái căng thắng của bộ phận này quyết định hình thái của toàn bộ tư thế. Như vậy, vấn đề mấu chốt quyết định tư thế biểu hiện ở mức độ căng thẳng của phần cơ ở cột sống và bộ phận phụ cận tiếp giáp với xương sống lưng. Mức độ căng thẳng này, cụ thể biểu hiện thông qua xương chậu - dựa phía trước hay là ngửa phía sau. Kiểu thứ nhất là tư thế thân trên duỗi và tư thế tương tự. Tư thế này xem ra rất oai phong, hùng dũng oai vệ, nhưng thực tế cũng là một tư thế ra sức thoát khỏi sự gò bó, khốn cùng. Kiểu xương chậu hướng ra sau rất tương tự với dáng vẻ của con chó cuộn đuôi, hoàn toàn thuộc tư thế kiểu chữ “G”. Tuy nhiên, nếu xương chậu của một người hướng ra sau, nhưng khi thân trên hoặc đùi có thể thẳng đứng, như thế thì tư thế của người đó không liên quan gì đến kiểu chữ “G”. Người có tư thế này đa số là động tác tự do, trong lòng thư thái, cuộc sống an nhàn, vui vẻ thoải mái.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét