Người Xưa nói “quan sát hành vi
mà biết tính cách”, chính là nói về đạo lý này. Trừ phi trải qua sự huấn luyện
chuyên môn, hành vi của một người nói chung đều bộc lộ những bí mật của nội
tâm. Nghiên cứu cho thấy, hoạt động chân tay nói chung đều là sự thể hiện tiềm
thức của loài người. Dáng đứng, dáng ngồi của một người thường cũng có thể bộc
lộ rõ tính cách của họ.
Tư thế khi tiếp xúc với đối
phương, cử chỉ, lời nói và hành động thể hiện thái độ đối đãi của một người đối
với đối phương. Liên quan đến điều này, mọi người sớm đã biết, cũng giống như
ánh mắt đã nói ở trên, gây sự chú ý cho mọi người. Ví dụ, hai tay bắt lấy nhau
và đặt sau lưng, cằm hất lên. Tư thế này thường có thể nhận thấy, giống như
những cảnh vệ đi tuần, nhân viên hải quan kiểm tra hành lý, cấp trên nói rõ
phương án công ty với cấp dưới, là tư thế của quyền uy.
Thế nào là tư thế chuẩn xác?
Chúng ta biết, hoạt động tâm lý
và trạng thái căng thẳng đối với cơ thể, đặc biệt là sự bố trí vị trí và tư thế
căng thẳng có ảnh hưởng rất lớn. Nói xa hơn, tư thế cũng ảnh hưỏng đến hoạt
động và trạng thái tâm lý của con người. Vì thế, chúng ta có thể thông qua tư
thế để đạt được mục đích hiểu xem nội tâm của họ có như ý hay không, tâm tình,
tình cảm có bình thường hay không để thay đổi trạng thái tâm lý nào đó, mọi người
đưa ra tư thế, động tác, tính toán nhất định nào đó để giải trừ sự căng thẳng
của cơ thể. Hơn nữa, những tư thế và động tác này nói chung đều tiến hành hoặc
hình thành mà không hề hay biết. Có thể nói là tuỳ theo trí tuệ hoặc bản năng
bẩm sinh của con người.
Đối với vấn đề giải trừ sự căng
thẳng, thời cổ đại đã tiến hành nghiên cứu một cách có ý thức, có kế hoạch.
Công pháp của các thể loại Yoga và ngồi thiền đã chứng minh điều này.
Ngoài ra, từ xưa đến nay, khi
đọc sách, viết chữ, cầu khấn thần linh phù hộ cho mình cũng đều có những tư thế
cố định. Những tư thế này qua rất nhiều sự kiểm nghiệm thực tiễn, chỉ có làm
như vậy mới có thể giành được hiệu quả như mong muốn. Trước tiên từ hình thể,
tư thế bắt tay, đây cũng chính là nguyên tắc tu hành.
Tư thế đối ứng trực tiếp với sự
căng thẳng. Nhà sinh lý học Yagebulin của Mỹ đã nghiên cứu và cho rằng: Không
phải là cứ cố gắng thay đổi sự căng thẳng về cơ bắp mà giải trừ căng thẳng.
Phương pháp mà ông áp dụng là: Thông qua việc hạn chế sự căng thẳng về cơ bắp
không cần thiết, hoàn toàn thả lỏng cơ thể để giải trừ sự bất an, lo lắng hoặc
chứng thần kinh về tâm lý. Phương pháp này gọi là “phương pháp tiến dần đến sự
thả lỏng”, hiện nay được áp dụng rộng rãi trên thế giới.
Người không khoẻ mạnh về tâm lý,
khi khôi phục sức khoẻ về tâm lý, cơ thể cũng được giải phóng trong tư thế
nghiêng lệch, trở thành tư thế khoẻ mạnh bình thường. Do đó, xem ra phải một
lần nữa đánh giá lại tính quan trọng của sự thay đổi tư thế.
Như vậy, trên thế giới có “tư
thế chính xác” hay không? Tư thế chính xác phải như thế nào? Câu trả lời là
trên thế giới có tồn tại tư thế chính xác, nó phân thành hai loại, một loại là
chỉ tư thế thích hợp nhất khi làm việc, hai là chỉ tư thế không liên quan đến
tính thích ứng. Tư thế thường có trong mọi người có tính phổ biến, tư thế lý tưởng.
Bây giờ chúng ta bàn một chút về
những động tác của vai.
Vai phân thành vai trái và vai
phải, nhưng vai có tác dụng chủ yếu là vai phải. Nếu bạn thấy cửa hàng âu phục,
hỏi thăm một chút bạn sẽ biết, đa số vai bên phải thấp hơn vai bên trái. Đương
nhiên cũng có một số người có vai phải cao, vai trái thấp. Vai cao đích thực là
thể hiện dáng vẻ có sức lực, vì thế nên coi là tư thế căng thẳng. Nhưng vai
thấp cũng hoàn toàn không có nghĩa là không có sức lực. Khi ấn nó xuống phía dưới,
nó cũng sẽ bị căng thẳng.
Vai rủ xuống là nhấc lên cùng
với một bên lưng, hình thành trạng thái căng thẳng và sự định hình của nó, làm
cho toàn bộ phần thân người giữa vai rủ xuống và lưng nhấc lên bị co lại. Sự co
lại này sẽ tạo cho mọi người sự nhức mỏi.
Đôi khi, khi nâng lên thì thường
là để vươn rộng vai ra phía sau, và ưỡn ngực một lát. Nhưng thời gian vai nâng
lên lâu, như thế không nhất thiết cần có tác dụng này. Động tác dường như là
phải nghĩ cách làm cho vai dựa nghiêng sang bên phải và sát vào đầu sẽ hình
thành tư thế hơi uốn cong lưng về phía trước. Tư thế giống như là bảo vệ cho
đôi vai và cổ của mình, sẽ khiến cho mọi người cho là một dáng vẻ gò bó.
Người có thói quen nhún vai, khi
nhún vai sẽ khiến cho mọi người cảm thấy cơ thể đặc biệt giống như một khúc gỗ
vừa cứng vừa mỏng, không có một chút sức lực nào. Người qua độ tuổi 40, nói
chung vai đều có dáng vẻ như vậy. Những người này khi nhún vai, đồng thời còn
có thể phát hiện, cùng một bên bả vai mà họ nhún, từ thân người đến phần lưng
trở nên cứng đờ. Hơn nữa, dường như là để duy trì trạng thái cứng đờ này, họ
thường khoanh tay của cùng một bên lên trước ngực (hoặc cố sức vươn ra ngoài),
giống như là nâng một đồ vật dễ vỡ một cách cẩn thận. Họ làm động tác như vậy
là muốn duy trì phong thái của mình. Nhưng trên thực tế, họ đã cảm thấy lực bất
tòng tâm, hơn nữa vừa nghĩ đến liền cảm thấy rất đau khổ.
Nếu hai vai muốn làm tư thế
tương tự, nói chung là thu hẹp bả vai phía trước, hoặc vươn ra phía sau. Kiểu
thứ nhất có hình chữ “G” và những tư thế tương tự. Kiểu thứ hai đa số là kiểu
trái ngược với cơ thể, tức là nâng lưng, phần mông nhô ra bên ngoài, giống như
tư thế đứng nhưng không phải là đứng.
Vai là bộ phận không thể thiếu
để cấu thành tư thế của nửa thân trên. Mọi người có thể thông qua tư thế cấu
thành bởi đôi vai của đối phương mà phán đoán đối phương, đồng thời đưa ra
những đối sách tương ứng.
Bây giờ hãy quan sát phần sống
lưng và phần lưng của một người.
Bộ phận gây sự chú ý cho mọi
người nhất trên thân người chính là phần lưng gù của thân trên và phần lưng nhô
ra của thân dưới. Cho dù mức độ cong của phần lưng gù có phần nghiêm trọng và
nhỏ bé, nhưng chúng đều thuộc tư thế có liên quan đến kiểu chữ “G”. Loại hình
này có sự liên hệ nội tại với sự suy thoái tình cảm và tinh thần bạc nhược
trong nội tâm của con người. Tư thế này nói chung không có quan hệ đáng kể đến
sự già yếu của cơ thể con người. Bởi cho dù là người lưng còng, sau khi đến một
độ tuổi nhất định, trong sự thả lỏng thích hợp, sau khi tiến hành luyện tập
phần đùi và lưng thì cũng có thể làm cho lưng sẽ khôi phục một cách tự nhiên
đến trạng thái thắng đứng. Ví dụ này trong cuộc sống thực tế là không ít. Điều
này cũng nói rõ một vấn đề, đây chính là phần còng của sống lưng, hình thành
mức độ nghiêm trọng kiểu chữ “G”, là có liên quan đến phần đùi và lưng.
Có thể coi lưng là trung khu của
động tác hoặc của tư thế để suy xét. Trạng thái căng thắng của bộ phận này
quyết định hình thái của toàn bộ tư thế. Như vậy, vấn đề mấu chốt quyết định tư
thế biểu hiện ở mức độ căng thẳng của phần cơ ở cột sống và bộ phận phụ cận
tiếp giáp với xương sống lưng. Mức độ căng thẳng này, cụ thể biểu hiện thông
qua xương chậu - dựa phía trước hay là ngửa phía sau. Kiểu thứ nhất là tư thế
thân trên duỗi và tư thế tương tự. Tư thế này xem ra rất oai phong, hùng dũng
oai vệ, nhưng thực tế cũng là một tư thế ra sức thoát khỏi sự gò bó, khốn cùng.
Kiểu xương chậu hướng ra sau rất tương tự với dáng vẻ của con chó cuộn đuôi, hoàn
toàn thuộc tư thế kiểu chữ “G”. Tuy nhiên, nếu xương chậu của một người hướng
ra sau, nhưng khi thân trên hoặc đùi có thể thẳng đứng, như thế thì tư thế của
người đó không liên quan gì đến kiểu chữ “G”. Người có tư thế này đa số là động
tác tự do, trong lòng thư thái, cuộc sống an nhàn, vui vẻ thoải mái.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét