Nghiên cứu cho thấy, những thông tin được truyền đạt qua ánh mắt trực tiếp hơn so với cách dùng miệng để nói chuyện, hoặc dùng tư thế để biểu thị ý tứ. Khi ánh mắt của một người bắt đầu thổ lộ, bạn nên hiểu rõ rằng, ánh mắt và sắc thái tình cảm không thể là không có duyên cớ, biểu hiện tuỳ tiện, mà dưới sự chi phối của não, sau khi thông qua sự nhận thức chủ quan mới truyền vào mắt. Do đó khi giao tiếp bạn cần chú ý: Trước tiên là thông qua ánh mắt của mình đã nhìn thấy tình hình của đối phương là gì, sau đó thể hiện quan điểm của mình về thái độ của đối phương. Đồng thời, cũng dùng ánh mắt để nắm bắt thái độ đối phương nhìn nhận về mình. Tức là hai bên dùng ánh mắt để giao lưu thái độ với nhau, sau khi hai chức năng kết hợp lại sẽ hình thành ánh mắt mà chúng ta nhìn thấy.
Tuy nhiên, từ ánh mắt mà chúng ta có thể cảm nhận được thái
độ của đối phương, thái độ đó là hợp tác hay không hợp tác. Ví dụ, mình rất
thành thực và chăm chú nói chuyện với đối phương, nhưng thái độ của đối phương
lại không hữu hảo, ánh mắt dường như là cười nhạt. Còn có khi, bạn ôn hòa nói
chuyện với đối phương, nhưng trên khuôn mặt của đối phương lại biểu lộ thần sắc
không vui, hoặc khuôn mặt như muốn khóc. Khi gặp trường hợp này thì cần phải
lập tức đoán xem đối tượng nói chuyện của mình, phải có một thái độ khác đối
với nội dung cuộc nói chuyện. Do đó, rất khó có được tiếng nói chung về tình
cảm với đối tượng nói chuyện, cũng rất khó giao lưu tình cảm với nhau, đạt được
sự du nhập về tình cảm.
Như vậy, nên giải thích như thế nào khi đối phương nói
chuyện, những phản ứng tương ứng thể hiện qua ánh mắt của đối phương, vị trí
của con ngươi và toàn bộ động thái của ánh mắt?
Khi nói chuyện, người phương Tây thường nhìn chăm chú vào
ánh mắt của đối phương. Làm như vậy có thể là để phối hợp nhịp nhàng quan hệ và
tình cảm đối lập đang tồn tại giữa mình và đối phương, để áp dụng thành thói
quen có tính lễ nghi. Trái ngược với người phương Tây, người phương Đông khi
nói, ánh mắt của họ thường nhìn hơi xuống dưới mắt của đối phương (tức là nhìn
lên phần trên ngực) để nói chuyện. Điều này là vì, người phương Đông cho rằng,
so sánh với nhân cách của đối phương quen biết, am hiểu được tâm tư và tình cảm
của đối phương là điều rất quan trọng. Do đó, ánh mắt của người phương Đông
thường nhìn chăm chú vào phần ngực mà họ cho là nó có thể truyền đạt được những
tâm tư và tình cảm của đối phương, để đạt được mục đích hiểu biết tâm lý và
tình cảm của đối phương, đồng thời dần hình thành thói quen luôn nhìn chăm chú
vào bên trên ngực của đối phương khi nói chuyện.
Những biểu hiện này đều là sự phản ánh tâm lý cảnh giới đối
với đối phương. Người mà nhìn chăm chú vào khuôn mặt của đối phương và người
tiếp xúc, đó là người luôn hành động để lấy lòng mọi người, có kế sách, có tính
cách thích nói những chuyện không liên quan đến mình, và thích chơi trội. Người
nhìn chăm chú vào mắt đối phương khi nói chuyện, đây là người có tấm lòng cởi
mở, độ lượng vị tha, có tính cách mạnh dạn và thận trọng vững vàng. Người luôn
liếc nhìn đối phương, là người muốn nhìn trộm nội tâm của đối phương một cách
cẩn thận từng li từng tí.
Ngoài ra, có người còn thể hiện vẻ mỉm cười trong ánh mắt
khi nói chuyện. Những người này thể hiện sự thừa nhận thành tâm thành ý thái độ
của đối phương. Có người trong ánh mắt còn chứa vẻ cười nhạt hoặc chế giễu đối
phương. Họ dùng ánh mắt chê bai khinh suất, chọc ghẹo đối phương, để qua đây mà
thể hiện thái độ của mình. Điều này hiển nhiên trái ngược hoàn toàn với thái độ
ánh mắt có vẻ mỉm cười ở trên, vì thế chúng ta phải chú ý, cùng là cười, nhưng
lại có hai loại hình cười khác nhau.
Trái ngược với ánh mắt chăm chú nhìn người khác, có người
sau khi đem ánh mắt của mình chuyển đến ánh mắt của đối phương, lúc đó họ mới
nói chuyện một cách ôn hoà. Hoặc cúi thấp đầu nói chuyện, hoặc khép mắt khi nói
chuyện, hoặc nhìn chăm chú vào mặt của đối phương, trường hợp này cũng có.
Những trường hợp này đều phản ánh, người nói chuyện có thái độ thẹn thùng, xấu
hổ. Trạng thái này chủ yếu gặp ở những người hay xấu hổ. Những người này trong
bất cứ trường hợp nào cũng đều không thích tiếp xúc với người khác, không muốn
nói chuyện với người khác. Đồng thời họ rất sợ khi nhìn chăm chú vào đối phương
để thể hiện ý kiến của mình, họ cũng sợ phải chú ý lắng nghe đối phương nói
chuyện. Người mắc chứng bệnh sợ hãi, đa số là thuộc kiểu những người này.
Những người này đặc biệt để ý xem mình có bị đối phương nhìn
hay không. Vì thế, họ không dám nhìn thẳng đối phương, họ luôn khổ sở về việc tìm
kiếm vị trí thích hợp cho ánh mắt của mình. Khi tìm thấy vị trí mà mình cho là
thích hợp và không bị đối phương để ý, tình cảm hứng thú cũng theo đó mà yên
định. Lúc này họ mới có thể dễ dàng bước vào trạng thái nói chuyện bình thường.
Vì thế, nên khi những người này nói chuyện, họ thường nói
lắp bắp, ấp úng. Có khi, ngay cả chính mình cũng không biết nói thế nào. Nếu họ
đang nghe người khác nói chuyện, thì hơn một nửa là không nói nên lời, nghe
người khác một cách bị động, rơi vào trạng thái chỉ một mình nghe đối phương
nói chuyện.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét