Chủ Nhật, 10 tháng 2, 2013

Tên của Dịch, nghĩa của Dịch

CHƯƠNG 4
NGUYÊN LÝ CĂN BẢN VÀ CỨU CÁNH

Dịch học có tham vọng tìm hiểu Vũ trụ để mà tìm hiểu con người. Mà muốn tìm hiểu sự vật gì thì phải tìm tới tận gốc của nó, tức là cái “lý” của nó. Muốn vậy thì phải quan sát cái “tượng”của nó thì lý sẽ hiện ra. Lý ấy là lý “biến dịch” là vật đổi sao dời, Dịch học tìm hiểu về cái lý ấy.

Có một điều cần lưu ý: Đây là một khoa học nhằm tìm hiểu cái tổng thể rồi sau đó sẽ suy ra các tiểu tiết, khác với khoa học hiện đại là tìm hiểu các tiểu tiết rồi gom lại mà tìm ra cái tổng thể sau.


A. Tên của Dịch, nghĩa của Dịch

Nguyên chữ “dịch” có nghĩa là đổi dời, thay đổi, trao đổi qua lại với nhau. Khi đọc là “dị” thì có nghĩa là dễ dàng sơ sài, bình thường, vui vẻ. “Dịch lý” là cái lẽ đổi thay của tạo hoá, nó dễ dàng, bình thường tức là rất tự nhiên nên rất dễ hiểu chẳng có gì là bày đặt khó khăn, không hợp lệ

Có thuyết cho rằng:

Chữ dịch nguyên là hội ý của hai chữ nhậtnguyệt để chỉ sự luân chuyển, biến dịch của Mặt trời, Mặt trăng, biểu tượng của âm dương.

Thuyết khác lại nói thêm:

Dịch là chữ tượng hình cho con tích lịch, tức là con kì nhông, một loài bò sát sống trên cây luôn luôn biến đổi màu sắc của thân mình theo thời gian và không gian. Đó cũng là tượng của chữ thời và chữ biến (sẽ được nói tới dưới đây), biến theo thời gian và không gian.

Dịch lấy cái “nguyên thuỷ yếu chung” làm bản chất tức là suy cứu cái nguyên nhân chính gốc (Thái cực) để mà truy tìm đến kết quả cuối cùng là đời sống của vạn vật, trong đó có con người, trong Vũ trụ này.

Trong Vũ trụ này, vạn vật cũng như con người chẳng qua cũng là những hiện tượng nhất thời phát sinh do cuộc tác động của âm dương trong lý Thái cực. Âm dương tác động cùng làm căn bản cho nhau để chu toàn cuộc biến hoá trong công trình đại tạo của hoá công (Thái cực). Nguyên lý ảo diệu ấy đã được con người phát hiện ngay từ thời xa xưa bởi một vị vua thần thông đại giác là Phục Hi, vị vua đầu tiên trong chính sử Trung Quốc. Kiến thức này đã được truyền bá tới các nước lân bang thuộc vùng Đông Á và từ thời trung cổ tới nay lại lan truyền qua khắp trời Tâỵ

Dịch có 3 nghĩa: biến dịch, bất dịch và giản dị.

1. Biến dịch

Nguyên lý “Vũ trụ biến dịch” trong Dịch học đã được tán tụng bao đời nay, ở khắp nơi khắp chốn, và được coi là nguyên lý độc nhất và bất di dịch. Dân Đông phương nắm giữ nguyên lý ấy, đặt thành luật tắc để ứng dụng trong nhân sinh xã hội, về vật chất và tinh thần, tất cả đều biến dịch. Và tất cả đều biến động đổi dời theo các quy luật sau đây.

Luật biến hoá: Đạo của dịch là “Biến” và biến động mãi mãi, không ở yên nơi nào mà chu lưu khắp chốn, lên xuống không chừng, cứng mềm thay đổi lẫn nhau cho nên không lấy cái gì làm chủ yếu điển hình được (Không cố định) mà chỉ biến đổi để thích nghi thôi. Sách nói: “Duy biến sở thích”, chỉ có biến đổi là thích hợp.

Biến thì phải đổi (dịch), đổi thì phải hoá. Khi nào và tại sao mà biến? Đó là: “Dịch”, cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu (lâu dài). Theo Dịch thì có cùng mới có biến, có biến mới có thông, có thông mới có lâu bền. Một đóng một mở gọi là biến, qua rồi lại, lại rồi qua, và qua lại không cùng gọi là thông. Ở cái lý “cùng tắc biến” này, Lão Tử có nói: Cái thái quá (cùng) sẽ biến cái gì mà ta muốn thành ra cái nghịch lại với cái mà ta muốn (hoá).

Trong Vũ trụ này, tất cả đều do đạo Dịch mà có. Đạo Dịch là đạo “sinh thành” của Trời đất. Sinh mà thành, thành mà sinh đó là đạo Dịch. “Sinh sinh chi vị dịch” sinh và sinh mãi là đạo Dịch. Hai chữ “sinh sinh” có nghĩa là sinh rồi lại sinh mà cũng bao hàm cả cái nghĩa tử rồi lại tử. Có sinh thì tất phải có tử mà có tử thì mới có sinh trở lại và có sinh trở lại thì lại cũng có tử trở lại, cứ thế cho đến vô cùng.

Như vậy là “tử nhi bất vong”, chết mà không mất. Dịch không cho là có cái chết tuyệt đối, cái chết vĩnh viễn mà “tử” chỉ là “biến” và “hóa”, về sau người ta dùng chữ “hoá” để chỉ sự chết. Cái mà ta gọi là “chết” chỉ là cái chết bên ngoài, thay hình đổi xác. Người ta chết là bỏ cái tiểu ngã mà trở vế với cái đại ngã, trong hư không mà sinh ra rồi nơi hư không mà trở về (sinh kí tử quy). Hai chữ “sinh sinh” đã diễn đạt rõ rệt nghĩa của hai chữ “biến hoá” tận rồi. “Tệ tắc tân”, cũ sẽ ắt biến thành mới. “Nhật tân, nhật nhật tân”, ngày đổi mới, ngày ngày đổi mới, Dịch không thủ cựu.

“Cương nhu tương thôi nhi sinh biến hoá, cứng (dương) mềm (âm) cùng ma sát nhau mà sinh ra sự biến hoá. Ở trời là tượng ở đất là hình, trong tượng và hình ấy mà ta biết được sự biến hoá, vì có biến hoá mới có sự thay cũ đổi mới. Chữ “sinh sinh” là cái đạo cực động của Trời đất.

“Cương nhu tương dịch”, mềm cứng cùng đổi, là sự biến dịch không những tự sinh tự hoá mà còn có tương sinh tương hoá nữa. Đoá hoa hồng khi nở ra thì nở ra hoa hồng chứ không phải là hoa nào khác, đó là tự sinh, nhưng lại phải nhờ có những trợ duyên bên ngoài mới nở được, đó là tương sinh. Khi nói “anh hùng tạo thời thế” thì cũng bao hàm nghĩa “thời thế tạo anh hùng” vậy.

Sự biến hoá làm cho thay đổi cả tính chất, làm cho hình hoá khí, khí hoá hình... liên miên bất tuyệt. Khoa học nguyên tử ngày nay cho rằng: Vật chất là khí đọng lại mà thành hình, khí là vật chất tan ra mà thành khí. Nói cách khác: khí lực và vật chất là một, hoặc là hai bộ mặt của một thực thể. Đó là âm dương, ngũ hành.

Sinh là không thể không sinh, hoá là không thể không hoá, cho nên thường sinh thường hoá, tức là không lúc nào không sinh không lúc nào không hoá. Đó là cái lẽ “bất đắc bất nhiên” phải vậy mới được vì không phải vậy thì không được, không tự nhiên (thế chẳng đặng đừng). Bóng mặt trời vừa đứng là đã có hơi chênh, mọi vật đang sống là đã mang sẵn cái chết.

Đó là “phương sinh phương tử”, đang sống là đang chết.

Vũ trụ là một giòng sông động miên trường, sinh sinh hoá hoá vừa là nguyên lý vừa là cứu cánh. Ở quan điểm “hoá” hay tương đối và tiểu thể thì có sinh có tử, ở quan điểm “lý” hay tuyệt đối và đại toàn thể thì chỉ có tồn tại miên tục.

Luật tương ứng, tương cầu: Động cơ của sự biến dịch này là do nơi: Khi hai khí âm dương có giao cảm nhau thì vạn vật mới hoà sinh. Vạn vật sinh rồi lại sinh mãi, cuộc biến đổi mới trở thành vô tận.

Nói giao cảm là nói về sự tương ứng tương cầu. Nếu có cầu mà không có ứng hoặc có ứng mà không có cầu thì không có giao cảm, tức có giao mà không cảm hoặc có cảm mà không giao.

Chữ “tương” ở đây thật là quan trọng. Trong cuộc đại biến hoá của Vũ trụ, mọi sự vật đều có sự tương quan mật thiết với nhau để mà sinh hoá. Dịch nói: “thiên nhân tương dữ”“thiên nhân, tương hợp”, trời và người hai bên cùng như nhau, hai bên cùng hợp nhau, và nhấn mạnh là “dịch” chỉ bàn cái lẽ thiên nhân tương hợp mà thôi. Thiên đây là thiên nhiên, tức Vũ trụ vạn vật. Khi mà nội ngoại đã tương thông, tương nhập (tương sinh) thì chừng ấy mới tự sinh, tự hoá. Người có giao cảm được với trời thì mới sinh tồn theo lẽ trời được, Tự sinh, tự hoá là nói về cái “lý” tuyệt đối của Thái cực, còn tương sinh, tương đối là nói về giới tương đối nhị nguyên đang diễn biến và hoá sinh vậy.

Âm dương hoà xướng là cái trạng thái bình, âm dương xung khắc là cái trạng bĩ loạn. Dịch là hoà dịch, lạc dịch chứ không phải là khắc dịch, nan dịch, nghĩa là biến đổi mà thuận hoà vui vẻ chứ không phải là biến đổi trong cảnh chống đối, gian khổ hận thù.

“Bảo hợp thái hoà” là cái luật trường cửu của Trời đất. Sự mâu thuẫn của Dịch không phải là cặp mâu thuẫn bị gián cách, chống đối hẳn nhau và tìm cách triệt tiêu lẫn nhau để một đốì phương tồn tại.

Nếu có gián cách là do có yếu tố thứ 3 chen vào, ta phải biết mà loại bỏ nó ra. Câu sách: “ba người cùng đi, ắt phải bỏ đi một người, một người đi ắt lại được bạn mình” có nghĩa là: Phải bỏ cái yếu tố thứ ba đi để cho cặp âm dương hoà xướng.

Còn như âm hay dương đi một mình thì rồi âm cũng gặp bạn nó là dương, dương cũng gặp bạn nó là âm.

Ở đây ta lưu ý: Các hào trong một quẻ thì chỉ có hào âm với hào dương mới tương ứng còn như nếu toàn âm hay toàn dương thì dù có tương sinh cũng không sinh được, có tương khắc cũng không khắc được. Bởi vậy âm Thuỷ mới sinh cho dương Mộc được, dương Mộc mới sinh cho âm Hoả được, về tương khắc thì cũng theo cái lẽ ấy.

Vạn vật trong Vũ trụ bao giờ cũng tìm bạn đồng thanh để mà tương ứng, đồng khí để mà tương cầu. Âm dương tìm lẫn nhau hoặc âm cũng tìm âm, dương cũng tìm dương nhưng phải là “đồng vọng” hay “đồng độ”, nghĩa là nội ngoại tương ứng và tuỳ thuộc cỡ chữ “thời” (sẽ được nói tới dưới đây).

Luật “tương ứng, tương cầu” lại bao gồm cả luật “thân tị”. Thân tị là dính liền nhau, khăng khít nhau. Những mâu thuẫn đều dính liền nhau, cho nên ở trên đây mới nói: “Một người đi ắt gặp bạn mình” có nghĩa là âm dương không bao giờ rời nhau mà đơn phương tồn tại được. Trong thiên hạ không có cái gì mà không có 2 phần, 2 mặt: Tốt xấu, phải trái... Hai phần tương đối với nhau, ấy là gốc của sự sinh hoá.

Luật tích tiệm: Biến và hoá đều chung một nghĩa là đổi rời nhưng biến là biến từ từ, lần lần, khó nhận thấy, là tiệm biến. Còn hoá là cuộc chuyến biến đã hoàn tất và đã trở nên hiển nhiên. Nói cách khác, biến là tiệm biến, hoá là đột biến. Bề tôi mà thí vua, con mà hại cha, cái nguyên cớ đâu phải là một sớm một chiều mà có, mà là dần dần mà đi đến vậy.

Sự tiệm biến ấy gọi là “tích”, nghĩa là chất chứa từ lâu dài. Điều thiện mà không chất chứa lâu thì không đủ để thành cái lợi cho người, điều ác mà không chất chứa lâu dài thì không đủ để làm hại thân mình. Sự sự vật vật, xét bên ngoài thì có vẻ im lìm, kì trung không lúc nào là không có thay đổi ở bên trong, không thấy được. “Động” và “tịnh”, tuy thấy hai thế khác nhau, kì thực chỉ có một. Không có cái động nào mà không có cái tịnh làm điều kiện tất yếu.

Trong trò chơi thả diều: Diều mà lên cao được (động) là nhờ có sợi dây cột chặt nó ở dưới (tịnh). Diều mà không có cái lực kéo trì xuống (âm, tịnh) thì không thể nào lên cao được (dương, động). Cho nên sách nói: “Cao dĩ hạ vi cơ” là dương lấy âm làm nền, động lấy tịnh làm gốc. Quả lắc đồng hồ hoạt động qua lại hai bên trái phải là cũng phải đi qua cái điểm tịnh ở giữa vậy. Bánh xe quay vòng tròn là do cái điểm không quay ở giữa (trục) chi phối vậy.

Luật phản phục: Dịch nói: “Vật cùng tắc biến”, nhưng biến cách nào, biến để trở thành cái gì? Đó là “vật cực tắc phản”, là khi cùng cực thì trái nghịch trở lại, trở về cái gốc, cái trước. “Vô vãng bất phục”, không đi thì không lại mà cũng không có cái gì có đi mà lại không có lại. Cũng như quả lắc (đong đưa) của đồng hồ lắc qua lắc lại, bên trái bên phải không ngừng.

Đó là luật “phản phục”. Phản đây là trở lại nơi khởi điểm. Đó là “phục vi kì căn”, trở về nơi gốc.

“Biến hoá giả, tiến thoái chi tượng dã”; biến hoá là cái tượng của sự tới lui. Tới rồi lui, lui rồi tới, qua rồi lại, lại rồi qua, lên rồi xuống, xuống rồi lên mãi mãi không thôi như quả lắc đong đưa, cái thoi dệt vải, trò chơi yoyo...

Chất chứa cái mềm lâu rồi thì thành cứng, chất chứa cái yếu lâu rồi thì thành mạnh, cứ nhìn vào chỗ chất chứa ấy để mà biết họa phúc. Trong cái yên đã nằm sẵn cái nguy, trong cái còn đã có sẵn cái mất. Đó là cái lẽ “âm trung hữu dương căn, dương trung hữu âm căn”, trong âm có mầm dương (sẽ trở lại dương), trong dương có mầm âm (sẽ trở lại âm).

“Đại viết thệ, thệ viết viễn, viễn viết phản”, lớn lao là tràn đầy, tràn đầy là đi xa, đi xa là trở lại.

Sự tiến triển của vạn vật trong Vũ trụ không đi thẳng luôn, mà sẽ trở lại. Thuyết quái (bàn về quẻ) về quẻ Phục nói: Trở đi trở lại mãi cái đạo của mình và cứ 7 ngày thì trở lại “Phản phục kì đạo, thất nhật lai phục, thiên hành dã”. Đó là: Quẻ Bác còn có 1 hào dương, qua quẻ Khôn có toàn 6 vạch âm (dương không còn) là 6 ngày mới qua quẻ Phục có 1 vạch dương trở lại, cộng là 7 ngày. (Hai đường thẳng song song đi mãi rồi cũng gặp nhau).

Lão Tử trong Đạo Đức Kinh cho rằng: Phản phục là một động tác của đạo (lý Thái cực) và “càng đi xa, càng có nghĩa là trở lại”.

2. Bất dịch

Sự biến hoá ở vạn vật bao giờ cũng diễn biến trong vòng trật tự, theo một quy luật “bất di, bất dịch”. Luật ấy gọi là “luật thường” (luật hằng), nghĩa là thường trụ bất biến, biến đổi trong quy luật nhất định không thay đổi.

“Động tịnh hữu thường”, động hay tịnh cũng do cái đạo thường có ấy chi phối.

Tất cả mọi sự vật trong đời đều rất động, nhưng nhờ có cái luật thường ấy chi phối mà sự động ấy không bị rối loạn, không đổi khác. Tất cả sự vật trong đời đều cùng về một nguồn mối, nhưng mỗi vật theo con đường riêng của mình. “Đồng quy nhi thù đồ”, cùng về nhà mà khác đường. Nguồn gốc ấy là Thái cực, nơi ấy gồm cả âm dương lưỡng tính, nơi mà ta gọi là “nhất nguyên lưỡng tính (hay lưỡng cực) động”. Lão học (cái học về đạo Lão Tử) gọi nơi ấy là cái “đắc nhất”.

Luật thường ấy tuy thấy là không làm gì cả mà thật ra nó chi phối tất cả mọi cuộc biến hoá trong Trời đất. Nó điều hoà mọi trạng thái động tịnh, không cho sự gì đi đến thái quá hay bất cập, thiếu thì nó bù, thừa thì nó bớt “bổ bất túc, tổn hữu dư”. Nó là luật “quân bình”, nó vô hình, nó vô vi (không làm) nhưng “vi nhi vô bất vi”, không làm nhưng lại là không có cái gì mà không làm.

Đạo của Trời đất là thường hằng vĩnh cửu, không bao giờ dứt, nó luôn luôn như vậy, không thay đổi (bất dịch). Vậy nên người quân tử lấy đó làm chỗ đứng không thay đổi để mà ứng xử với mọi sự biến đổi trong đời. “Dĩ bất biến ứng vạn biến”, lấy cái đạo không dời đổi mà ứng xử vào muôn vàn sự dời đổi.

Cái khí của trời đất là âm dương biến hoá, co duỗi, tụ tán trăm đường khác nhau, nhưng cái “lý” của nó bao giờ cũng thuận theo một đường, cùng theo một quy luật nhất định. Nó là động lực chi phối mọi cuộc biến hoá, là cái cơ nơi chữ “thời cơ”mà ta thường dùng.

3. Giản dị

Giản dị là không phức tạp. Cái đạo đổi dời và cái đạo thường hằng bất dịch kể trên chỉ là cái căn bản của Vũ trụ vạn vật nên cũng gọi là “hoàng cực”. Nó chẳng có gì là phức tạp. “Dị giản nhi thiên hạ chi lý đắc hĩ (hề)”, cái lý (biến hoá) dưới đời thật là giản dị.

Biến dịch và bất dịch chỉ là nói về nguyên lý. Giản dị là nói về cái tính cách, cái ứng dụng. Rõ được cái lý biến dịch bất dịch thì hiểu được cái dụng, cái tính cách giản dị của nó. Biến dịch và bất dịch là lẽ đương nhiên, chẳng có gì là phức tạp mà thật là giản dị.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét