Chủ Nhật, 10 tháng 2, 2013

CHƯƠNG: TƯỢNG SỐ HỌC VÀ TRIẾT HỌC

Dịch học nhận định rằng: Các hiện tượng của Vũ trụ chỉ là các trạng thái khác nhau trong vòng sinh tử, tử sinh của vật thể biến động.

Nguyên lí ấy là Dịch lí trong quá trình "thành thịnh suy hủy" của Âm dương, động lực của Thái cực. Nhà Phật gọi quá trình ấy là "thành trụ hoại không". Lão học, Khổng học thì gọi là “sinh lão bệnh tử”.


Đó là “Vũ trụ quan động” của triết học Á Đông trong Dịch học.


Tư tưởng Đông phương cổ kim đều cho rằng: Vũ trụ này có một mãnh lực vô hình chu hành khắp không gian và thời gian gọi là Thái cực (Lão học còn gọi là Đạo), tác động do hai trạng thái động tịnh của mình, tức khí Âm dương, để biến hoá muôn loài, tạo ra một cuộc sống động và vĩnh cửu.


Đó là lí “nhất nguyên lưỡng cực" tức lí Thái cực, Âm dương.


Trong cái lí “biến dịch" do tác động của hai trạng thái động và tịnh của âm và dương này, có những quy luật căn bản: Luật tương sinh tương khắc hay tương phản tương thành, tương ứng tương cầu, luật tiêu trưởng, tích tiệm, phản phục...


Khởi thuỷ, vua Phục Hi vạch và xếp Tiên thiên Bát quái và 64 trùng quái, biểu tượng cho Âm dương chuyển hoá, rồi tìm hiểu về sự sinh khắc chế hoá của Ngũ hành, do tác động của Âm dương, sinh ra, biểu hiện nơi các con số trên Hà đồ. Các hào quái ấy và những điều sơ giải đều khắc vào đá và các thẻ tre để lưu truyền.


Và Dịch học đã chỉ cho ta thấy rằng:


Đầy cả khoảng Trời đất này duy chỉ có một cái Lí mà thôi, lí ấy là lí tự nhiên, lí của Thái cực. Lí ấy tìm thấy ở đâu? Lí ấy nằm trong “tượng” mà tượng là các hào quái bởi vì hào quái được dựng nên để biểu tượng cho sự chuyển hoá của Âm dương. Sự chuyển hoá của Âm dương là cái lí của Thái cực.


Sự chuyển hoá của Âm dương tạo ra cái gì và ở đâu?


Âm dương chuyển hoá tạo ra Ngũ hành khí, biểu hiện bằng các con số nằm trên Hà đồ (và Lạc thư).


Thái cực là lí tự nhiên, hào quái là tượng của Âm dương, Hà đồ (và Lạc thư) là số của Ngũ hành. Có lí thì có tượng, có tượng thì có số, Dịch học bắt đầu từ đấy.


Khi tượng số đã hình thành thì cái lí có đầy đủ trong đó, ta tìm hiểu ở nơi này.


Vũ trụ vạn vật chỉ có một cái lí chung và duy nhất nhưng mang nhiều tượng số, do đó mà mỗi vật có từng nhóm số. “Các hữu Thái cực”, mỗi vật đều có một Thái cực, bởi đó mà “các hữu tượng số” vậy.


Vua Phục Hi và suốt các đời kế tiếp đã dùng tượng số ấy mà tìm hiểu Vũ trụ, liên hệ với nhân sinh đặng dạy dân sinh hoạt mỗi ngày một thăng hoa. Đồng thời các vị ấy cũng tìm xem việc cát hung, họa phúc trong việc trị dân, dựng nước (đó là việc bói toán với ý nghĩa đúng đắn của nó).
Vũ trụ và nhân sinh có một mối liên hệ nhất quán. Đó là "thiên địa vạn vật đồng nhất thể", đó là “thiên nhân tương dữ”. Vũ trụ quan theo chiều hướng nào thì Nhân sinh quan cũng theo chiều hướng ấy, chỉ khác nhau ở chỗ cao thấp, lớn nhỏ, thanh trọc mà thôi.


Vua Phục Hi hoạch quái (vẽ các quẻ) để dùng Thái cực, vua Thần Nông trồng lúa để dùng nguyên khí, vua Hoàng Đế chế lịch pháp để chia thiên độ, chia đồng ruộng để tường địa lí. Rồi, Lệ Thủ chế ra toán số, Đại Khiên đặt ra Giáp Tí (can, chi), Thương Hiệt đặt ra chữ viết, Kì Bá luận về thuốc men, Linh Luân đặt ra luật tắc (âm nhạc), tất cả đều lấy lí số, tượng số của Dịch học mà chỉ bảo cho mọi người.


Dịch học khi đó là khoa học, khoa học tổng thể gồm các môn: lí số, tượng số thuộc về thiên văn. Lí, tượng số học ấy tìm ra cái lí duy nhất đã tạo nên cuộc sống của toàn thể cõi đời này, sự nên hư, đắc thất trong mỗi kiếp sống, hiện tại và cứu cánh của cuộc đời, trong đó có con người. Còn số học ngày nay mới là tìm hiểu về căn nguyên thừa số, tích lũy của các con số mà thôi. Như vậy, lí số, tượng số ở đây lại cũng có một phần triết lí.


Trên hai ngàn năm sau, vua Văn Vương nhà Chu (Tây Chu) đặt lại thứ tự và phương vị cho Bát quái, cũng như 64 trùng quái, gọi là Hậu thiên Bát quái, viết sách Chu Dịch, làm quái từ (còn gọi là thoán từ) bàn về nghĩa lí của các quẻ. Chu Công Đán và con của Văn Vương là Vũ Vương thì làm hào từ giảng giải về các vạch. Sau đó tới thời Chiến Quốc (Đông Chu), Khổng Tử viết lại sách Chu Dịch của Văn Vương và làm thêm Thập Dực (10 cánh, 10 phụ giải) gọi là truyện: Thoán truyện, tượng truyện, về sau lại có thêm chú giải của Chu Hi. Trong kinh sách ấy, lời bàn, lời truyện lại nhẹ về số và nặng về tượng, thiên về đường nghĩa lí, nói nhiều về các lẽ đắc thất, thịnh suy, trị loạn của quốc gia và đường lối xử thế của bậc quân tử cùng cái đạo làm người. Đối với quỷ thần thì Khổng Tử nói “kính nhi viễn chi”, kính mà xa đấy, có nghĩa là cao xa quá, đáng kính trọng nhưng không dám lạm bàn, sợ phạm phép.


Dịch học khi đó là triết học, triết học về tượng (Âm dương) và thuộc về nhân văn.


Cùng với Khổng Tử là thời “bách gia chư tử” đã có hàng trăm học giả tìm hiểu Dịch lí và viết sách Dịch học với nhiều xu hướng và quan niệm, đi sâu vào nhiều khía cạnh, phát hiện ra nhiều điều uyên áo dị kì mà ta đã thấy một phần ở trên.


Tiếp đó là các đời Tần, Hán, Tam Quốc và nhất là Đường, Tống (thế kỉ VII, VIII sau công nguyên) thì Dịch học đã phát triển tột độ, bao trùm lên hầu hết các môn học khác làm cho các môn học khác cũng thăng hoa thêm.


Khoa học và triết học ấy (khoa học về số, triết học về tượng) có nội dung rất phong phú, bao gồm khoảng 16 môn học khác nhau. Càng phong phú thì công dụng càng đa diện, càng đa diện thì sách vở bàn luận càng nhiều. Từ đó hàng trăm học giả đã viết sách luận giải và triển khai mọi lẽ cùng đem ứng dụng vào nhiều môn học khác nhau. Dịch học đã phát triển với trăm pho ngàn quyển, mang nhiều sắc thái và chia làm nhiều hệ phái, mỗi phái thiên về một mặt, như đã nói trên. 


A- Âm dương Ngũ hành, vô hình hữu hình
  “Thái cực thị sinh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, Tứ tượng sinh Bát quái”
 
Trước hết ta cần hiểu rằng hai chữ “thị sinh” ở đây không có nghĩa là từ cái “không” mà sinh ra cái “có” mà có nghĩa là có sẵn trong đó và có thể nhận thấy được khi phân 2 (sinh) mà hoạt động.


Tới đây ta có thể hiểu tóm lược là:


- Thái cực là nguyên lí tạo dựng và bảo tồn cuộc Trời đất này Âm dương là tinh khí và khí năng của Thái cực. Ngũ hành là khí chất do Âm dương ma sát mà thành. Vũ trụ là toàn thể vạn vật do Ngũ hành khí cô đọng lại mà tạo nên. Hiểu cho thật rộng, thật rõ thì khi nói Thái cực là nói gồm cả Lưỡng nghi, Tứ tượng và Bát quái là cái mãnh lực và tính cách Tiên thiên.


Thái cực, với nghĩa của chữ “thái” là lớn quá, cao xa quá, chữ “cực” là chỗ chấm dứt, chỗ tận cùng và cũng có nghĩa là rất lắm, quá nhiều, quá lớn, không phải là cái gì có hình thể mà ta có thể nhìn thấy, sờ thấy mà chỉ có thể cảm thấy mà thôi.


Thái cực đây không phải là chỉ riêng về tầm vóc, về ranh giới hữu hình mà là cái gì đó là hạng nhất thuộc về tinh thần tuy vô hình nhưng lớn lao nhất, cao xa nhất, mạnh mẽ nhất, trí lực nhất, siêu việt nhất, có trước nhất là cái độc nhất, trong cuộc đời này, tức là trời, tạo hoá, hoá công, con tạo, thượng đế, đạo tuỳ theo quan niệm của mỗi học phái.


Trong bộ chữ tượng hình thì chữ “thiên" là trời, gồm có chữ “nhất” là một và chữ "đại" là lớn, có chung một nghĩa là lớn nhất (về mọi mặt) là số 1 (number one).


Do câu sách "Thái cực cũng gọi là Vô cực" nên đã có người cho rằng: Lúc đầu, Vũ trụ này chỉ là một khoảng trống rỗng, hoàn toàn không có gì (vô), là một cái cực (có bờ bến) mà không có gì. Dần dần 2 khí Âm dương mới hiện ra và hoạt động, khi đó mới gọi là Thái cực (Vô cực sinh ra Thái cực). Đoạn sau sách ấy lại cũng ghi: Tiên thiên Bát quái (gồm cả Thái cực, Lưỡng nghi và Tứ tượng) thuộc thời kì (!) vô hình, còn Hậu thiên Bát quái thuộc thời kì (!) hữu hình.


Cũng do quan niệm ấy mà có người đã lập ra Trung thiên Bát quái để chỉ vào thời kì (!) giữa Tiên và Hậu thiên (?).


Theo thiển ý chúng tôi: Nghĩ như vậy, nói như vậy và làm như vậy là cho rằng lúc đầu Thái cực là một cái có cực (có ranh giới) mà không có gì, rồi từ cái không có gì mà trở thành cái có.


“Vô cực” là không cùng, không bờ bến, không thời gian, không trước không sau (vô thuỷ vô chung) chứ không phải là cái có cực (có bờ bến) mà không có gì. Theo Dịch thì Vũ trụ này vô thuỷ vô chung, vô bờ vô bến, không có khởi đầu nên cũng chẳng có chỗ chấm dứt, không có chia ra thời kì vô hình, hữu hình trước sau gì cả. Nó tự nhiên nhi nhiên mà có sẵn như vậy, là luôn luôn biến hoá để sinh tồn tạo ra sự trường cửu của cái đại thể là Vũ trụ.


Có vậy mới gọi là tự nhiên, thiên nhiên được.


Nói tắt một lời: Thái cực là nguyên lí tạo dựng và chi phối Vũ trụ (cuộc trời đất này).


Lí Thái cực là lí nhất nguyên (một mối) khi nói chung (bất động), có hai phần Âm dương khi nói riêng ra (hoạt động) và gọi là lưỡng cực (hai đầu). Nói ngược lại thì sự hoạt động của Âm dương là cái lí của Thái cực, cho nên đôi khi cũng có nguyên lí Âm dương để chỉ về hoạt động của Âm dương trong vạn vật. Toàn thể cuộc trời đất này (Vũ trụ) sinh tồn được là do nguyên lí Thái cực và mỗi vật đều do Âm dương tác tạo, nên cũng có một lí Thái cực cho riêng mình.


Dịch nói: “Các hữu Thái cực”, mỗi vật đều có một Thái cực. Như vậy, mỗi vật lại cũng là một tiểu Vũ trụ. Vũ trụ có tính chất nào, tính cách nào thì mỗi vật cũng có vậy, Vũ trụ được cấu tạo ra sao thì mỗi vật cũng được vậy. Vũ trụ chia ra thì thành vạn vật, vạn vật gom lại thì thành Vũ trụ, toàn thể bao gồm tiểu thể, tiểu thể hợp lại thành toàn thể. Mỗi mảnh nhỏ do một thỏi từ thạch lớn chặt ra cũng đều có 2 cực Âm dương như thỏi từ thạch ấy vậy.


Con người, cũng như mỗi vật, là một tiểu Vũ trụ. Muốn tìm hiểu con người (một tiểu Vũ trụ) thì tìm hiểu Vũ trụ rồi suy ra. Tìm hiểu cái gốc thì sẽ biết được cái ngọn, vả lại cái nhỏ tuy gần nhưng khó thấy, cái to tuy xa nhưng dễ thấy hơn. Tìm hiểu cái tổng thể rồi mới suy ra các phân thể, luận lí (logic) của tư tưởng Á Đông là vậy.


Dịch học có hàm ý ấy và cho rằng: “thiên địa vạn vật đồng nhất thể” nên "thiên nhân tương dữ và tương hợp”, trời và người cũng như nhau, cùng hợp với nhau. Lẽ trời sao thì lẽ người vậy, việc trời sao thì việc người vậy, hiểu lẽ trời thì cũng sẽ thấy việc người. Cái gì được đặt định cho Vũ trụ thì cũng được thể hiện nơi con người, dương thiên về tinh thần, âm nặng vể thể xác.


Ta có thể tạm hiểu như: Thái cực là tính năng và Âm dương là khí năng. Khí ấy vô hình và có 2 phần: Thanh trọc, nặng nhẹ, cứng mềm, nóng lạnh khác nhau để bù đắp cho nhau mà sinh động lực, mà trở thành khí năng. Phần thanh, nhẹ, cứng, nóng gọi là dương, phần trọc, nặng, mềm, lạnh gọi là âm. Âm dương đọng một tính chất mà 2 tính cách, thể cách. Nói riêng ra thì dương lập tính, âm lập thể. Thể cần tính mà tính cũng cần thể, cho nên khí sinh hoá thì âm sinh dương, dương sinh âm.


Khi chuyển hoá thì Âm dương đắp đổi cho nhau thành có 2 độ non già khác nhau, gọi là thiếu dương thái dương và thiếu âm thái âm. Bốn phần tử này được biểu tượng bằng 2 hào chỉ về 4 độ non già của Âm dương nên gọi là Tứ tượng. Đó cũng là lịch trình sinh trưởng của Âm dương hai ngôi. Hiện tượng này khác nào đường đi của Mặt trời trong ngày: Sáng sớm Mặt trời mọc ở phương Đông, tới trưa đứng bóng thì nghiêng về Nam, buổi tối thì lặn ở phương Tây và đêm khuya thì nghiêng về Bắc.


Trên con đường chuyển hoá tiếp tục, Tứ tượng lại sinh ra Bát quái là 8 hiện tượng chính yếu trong cuộc đại tạo này.


Bởi căn là Thái cực, Âm dương thường được gọi là: Đạo, đế, thần, thần minh, quỷ thần tuỳ trường hợp. Âm trọc nên gọi là quỷ, dương thanh nên gọi là thần. Nếu nghĩ cạn và không hiểu gì về lí Thái cực thì cho đó là những cái linh thiêng huyền bí, có khả năng tác oai tác phúc mà con người có thể cầu khẩn được. Thực ra cũng chính Âm dương chi phối đời sông con người “Âm dương bất trắc vị chi thần”, Âm dương biến hoá chẳng lường được nên gọi là “thần”. Càn giao Khôn làm thành Tốn, Li, Đoài. Khôn giao Càn làm thành Khảm, Cấn, Chấn.


Âm dương là một, nhưng Âm dương thiên biến vạn hoá (bất trắc) để sinh Ngũ hành. Âm dương là khí hạo nhiên (to lớn mênh mông) là khí chính, phần vô hình tốt đẹp của trời, ngày nay người ta gọi là khí ether.


Âm dương với tính cách “tương phản, tương thành” đã sinh hoá muôn loài, tạo ra một chuỗi nhân quả, rồi nhân tạo ra quả, quả tạo ra nhân, miên tục không dứt. Việc sinh hoá, tạo huỷ của muôn vật đều tuân theo định luật “mâu thuẫn” và “nhân quả". Mâu thuẫn để sinh, nhân quả để hoá. Nguyên tử cấu tạo muôn vật, khi vật huỷ diệt thì nguyên tử vẫn còn và do ngẫu hợp mà tạo nên vật khác.


Vạn vật trong Vũ trụ này sỡ dĩ có được là do sự “diệu hợp nhi ngưng", phối hợp nhau một cách kì diệu mà ngưng đọng lại của nhị ngũ (2, 5) tức Âm dương, Ngũ hành từ Hình nhi thượng (khí năng khí chất vô hình) qua Hình nhi hạ (thể chất hữu hình). Khí biến thì hình hoá, ở trời là tượng, ở đất là hình, cuộc biến hoá đã rõ. Ngày nay nhà bác học Einstein đã định nghĩa về vật chất như sau: Vật chất chỉ là khí năng cô đọng lại hết mức, còn khí năng lại chỉ là vật chất tan loãng ra hết mức mà thôi.


Ngũ hành là khí chất vô hình do Âm dương ma sát nhau mà tạo ra, rồi Âm dương lại tác động vào Ngũ hành để Ngũ hành sinh khắc chế hoá lẫn nhau, khi đó mới thành hình thể, cô đọng thêm nữa mới thành vật thể. Âm dương Ngũ hành nguyên lại cũng chỉ là một, bởi thành phần cấu tạo và động lực thúc đẩy nằm sẵn ở trong nhau.


Vạn vật trong Vũ trụ này đều do Âm dương Ngũ hành tạo lập nên. Vũ là xuyên khắp không gian, trụ là xuyên khắp thời gian. Vũ trụ là thời, không, là một khối vật chất gồm các thiên thể và vạn vật, không bờ bến, không trước sau.


Thái cực là “lí", Vũ trụ là “biểu”, Âm dương Ngũ hành là “thể”, vạn vật là “dụng”. Toàn thể Vũ trụ là một bộ máy khổng lồ chịu theo cuộc biến Dịch không ngừng của lí Thái cực.


Trong chuyển hóa, Âm dương luôn luôn ở trong thế : Đối đãi, hòa hợp, ma sát nên một mặt sinh ra Ngũ hành, mặt khác lại tác động làm cho ngũ hành sinh khắc, chế hóa lẫn nhau mà tạo thành muôn vật. 


(Còn tiếp...)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét